MẠC SƯƠNG


Join the forum, it's quick and easy

MẠC SƯƠNG
MẠC SƯƠNG
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
MẠC SƯƠNG

Chuyên Dưa leo Baby Hà Lan, Đ/c ấp 4 Sông Trầu, Trảng Bom, Đồng Nai ĐT 0973764405!

Latest topics

» Dưa Tết Canh Tý 2020----ấp 6, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai
by gacon 15/1/2020, 9:45 am

» tiemview crack
by macsuong 28/5/2018, 2:30 pm

» cà chua bi trồng hữu cơ rất an toàn cho người dùng
by macsuong 28/5/2018, 9:06 am

» Lệnh điều khiển máy từ xa
by macsuong 28/5/2018, 9:05 am

» TRẢNG BOM NƠI TÔI SỐNG
by macsuong 27/4/2018, 1:01 am

» CÀ CHUA SÔ CÔ LA GIỐNG NGA
by macsuong 27/4/2018, 12:26 am

» CÀ CHUA F1 RED GIỐNG NGA
by macsuong 27/4/2018, 12:24 am

» cụ thể là chép vào thư mục này
by macsuong 1/11/2017, 10:55 am

» Đặc Sản quê Hương Xứ Nghệ
by macsuong 8/2/2017, 11:03 am

» Cảnh sát biển Việt Nam theo dõi Hải Dương-981 vào Biển Đông
by macsuong 29/12/2015, 3:52 pm

» File word bị lội "This error message can appear if the document you are
by ngoctram.nhim 19/7/2015, 10:02 pm

» Những câu châm ngôn cuộc sống ý nghĩa
by macsuong 11/11/2014, 11:29 am

» SẢN PHẨM MỚI 10/2014
by bimbip 4/10/2014, 8:17 pm

» Bảng báo giá sản phẩm mỹ nghệ
by macsuong 30/5/2014, 4:31 pm

» Cảm ơn Trung Quốc vì đưa giàn khoan đến thềm lục địa Việt Nam và sau đó...
by macsuong 9/5/2014, 10:16 am

» TẠI SAO TÔI KHÔNG VÀO ĐƯỢC DIỄN ĐÀN?
by gacon 3/12/2013, 9:46 pm

» .....CHÚC MỪNG....
by gacon 3/12/2013, 9:43 pm

» Tạo chương trình khởi động cùng window 7
by macsuong 23/10/2013, 11:01 am

» Nồi cơm khổng tử
by macsuong 26/9/2013, 9:51 pm

» OsMonitor phần mềm giám sát mạng LAN (phần mềm giám sát mạng nội bộ, mạng văn phòng)
by piaorou86 30/3/2013, 11:39 pm


You are not connected. Please login or register

Nghề nuôi chim bồ câu

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

1Nghề nuôi chim bồ câu Empty Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 11:06 am

macsuong

macsuong
,
,

Báo nông nghiệp số 104 ra ngày
26/5/2003

Chỉ có 3 công ruộng, nhưng
tới 13 nhân khẩu, cuộc sống của gia đình chú Ba Râu không mấy
gì sung túc nếu không nói là hết sức khó khăn.
Vốn là nhà giáo nên chú
hết sức đắn đo khi tim kế sinh nhai để “nghèo cho sạch, rách
cho thơm". Lúc thì bán meo, khi mua nấm đóng thùng chuyển từ
TT huyện Vị Thuỷ (Cần Thơ) lên TP.HCM. Nhưng tuổi 67 khiến chú
không còn đủ sức để đi lại trên đoạn đường hàng trăm cây
số. Thế rồi vận may đã đến, một người bạn hướng dẫn chú
nuôi chim bồ câu siêu thịt, mỗi con nặng từ 1,2 kg trở lên.
Loại bồ câu này ít bệnh, dễ nuôi. Lúc đầu, chú nuôi
thử 20 con (vốn 300.000 đồng), sau 6 tháng nuôi chú bán được 10
triệu đồng. Trừ chi phí, chú thu lãi 5.000.000 đồng, chưa kể 20
con bồ câu bố mẹ. Năm 2002, chú mở rộng chuồng trại thêm
150m2, nuôi 70 con bồ câu bố mẹ. Chia thành 2 khu vực: Khu vực bồ
câu thịt, khu an dưỡng chờ đẻ tiếp, trong đó dành 50m2 làm ổ
cho bồ cáu đẻ, ấp. Theo kinh nghiệm của chú, muốn bồ câu mau
lớn, khoẻ mạnh phải cho chúng ăn bắp, đậu xanh hột. Lúc bình
thường cho chúng ăn lúa trộn với một ít thức ăn công nghiệp
của vịt để bồ câu chóng lớn và mắn đẻ. Bồ câu ngoại
nhập siêu thịt đẻ trung bình mỗi đợt 2 trứng, sau 3 ngày rồi
ấp khoảng 18 ngày sau mới nở; 24 ngày tuổi có thể xuất chuồng
bán. Hiện nay, mỗi ngày chú bán ra từ 10-15 cặp cho khách từ các
tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, Cần Thơ, TPHCM đặt hàng với giá bồ câu
30 ngày tuổi là 250.000đ/cặp (2 con); bồ câu bố mẹ: 400.000đ/cặp.
Chú cho biết, thực sự mà nói, không đủ bồ câu để bán cho khách
nữa.

Điều đáng nói ở đây là
từ tiền bán bồ câu, chú sang được 5 công ruộng. Điều đó
chứng minh rằng nếu ở nông thôn, người nghèo học cách làm
của chú Ba Râu ở ấp 4, xã Vị Thuỷ (huyện Vị Thủy, tỉnh
Cần Thơ) thì sẽ có cơ hội thoát nghèo.
Hưng Thịnh

Nghề nuôi chim bồ câu
Báo nông nghiệp số 167 ra ngày 9/9/2002
Trước kia chim bồ câu được
nuôi lác đác trong các hộ gia đình và hầu như chỉ là nuôi
"văn nghệ" cho vui cửa vui nhà... Thế nhưng thời gian gần
đây ở một số địa phương đã bắt đầu nổi lên nghề nuôi
chim bồ câu với quy mô lớn và đang có rất nhiều triển vọng.
Chúng tôi tìm đến nhà anh Lê Văn Lắm ở ấp Thọ Lâm 3, xã Phú
Xuân, huyện Tân Phú (Đồng Nai), là một trong những hộ khá thành
công với nghề nuôi chim bồ câu..."siêu thịt". Dẫn chúng
tôi ra thăm mô hình chuồng nuôi chim câu sau nhà, anh Lắm vui vẻ
cho biết: Gia đình tôi nuôi chim bồ câu đã lâu rồi nhưng trước
kia chỉ là nuôi "văn nghệ" vài ba cặp cho vui chứ không
nuôi nhiều như bây giờ. Nhưng vào thời điểm năm 2000, khi tình
cờ anh gặp lại người bạn ở Lái Thiêu trên thành phố tặng
anh mấy cặp bồ câu giống "siêu thịt Hà Lan" đưa về nuôi
thử và chỉ sau ba tháng anh đã có được 10 cặp chim mới. Thấy
giống bồ câu này sinh sản tốt, lại nhanh lớn, anh Lắm đã
quyết định tự nhân giống lên và chuyển sang nuôi bồ câu với
quy mô lớn. Chúng tôi hỏi về kỹ thuật nuôi chim câu, anh Lắm
bộc bạch: Mới đầu anh cũng chỉ tự nuôi theo kinh nghiệm riêng
của mình nhưng đến khi quyết định đầu tư và chuyển sang
"nghề" nuôi chim, anh đã phải tự đi tìm mua sách về tham
khảo thêm. Dần dần anh đã có được nhiều kinh nghiệm kỹ
thuật nuôi và chăm sóc chim câu, từ đó anh đã tìm mua thêm
giống chim của Pháp-Hà Lan về nuôi. Đến nay, trại bồ câu nhà
anh đã có khoảng gần 200 cặp chim đẻ đang cho thu nhập. Cứ
khoảng 40 ngày, mỗi cặp bồ câu giống lại cho một cặp bồ câu
ra ràng và bán được với giá từ 40.000 - 60.000 đồng/cặp. Tính
ra mỗi lứa chim 40 ngày đã cho gia đình anh thu nhập khoảng 6
triệu đồng/lứa, nếu trừ hết chi phí thức ăn thì mỗi tháng cũng
còn lãi được 4 triệu đồng. Với kinh nghiệm nuôi của mình, anh
Lắm đã cho biết, nếu theo đúng Kỹ thuật trong sách pha chế
thức ăn cho chim theo tỷ lệ gồm: 40% đậu xanh, 30% bắp hạt
sống, 20% gạo lức và 10% lúa đem trộn đều với nhau. Nhưng để
giảm được chi phí thức ăn, anh chỉ cho chim ăn gạo, lúa và pha
thêm cám gà để giảm lượng đậu xanh. Theo anh Lắm, loại chim này
ít bị bệnh dịch nên rất dễ nuôi, chỉ cần vệ sinh chuồng
trại sạch sẽ và phải giữ chế độ ăn uống của chim đều 3
cữ/ngày. Ngoài ra, nên tăng cường thêm một số chất khoáng, vôi
vào khẩu phần ăn của chim để đảm bảo cho chim sinh sản và hơn
nữa sẽ giúp chim luôn giữ được nhiệt để tiêu thụ thức ăn
tốt. Điều quan trọng nhất là hãy luôn tạo cho chim có được môi
trường tự nhiên thì chim sẽ mau lớn. Qua thực tế nuôi anh
thấy, nuôi chim trong chuồng tỷ lệ đẻ và ấp đạt được từ
90% - 100%, nhưng khâu chăm sóc nhiều bơn, tốn công hơn. Còn khi nuôi
thả thì tỉ lệ đạt khoảng 80%, nhưng có ưu điểm là chim khoẻ
không bệnh dịch. Do chim câu rất ưa sống trong điều kiện
chuồng trại đẹp thoáng mát, yên tĩnh nhẹ nhàng, cho nên trong khu
vực chuồng cần có chỗ cho chim tắm và mỗi tuần pha một lần nước
muối nhạt để chống rệp cho chim. Đồi với chim bồ câu thường
đẻ trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 giờ chiều do vậy cần
hạn chế vào chuồng chim và cấm xua đuổi, đặc biệt chim câu
kỵ nhất là gặp chuột, mèo hay rắn...bởi vì rất dễ gây
hoảng loạn cho chim và có thể sẽ làm chim không hoặc ngưng đẻ
ngay lập tức.
Từ chỗ chỉ là nuôi "văn
nghệ" nhưng đến nay mô hình nuôi chim bồ câu của gia đình
anh Lê Văn Lắm đã trở thành một "nghề chính", giúp cho
gia đình anh có được nguồn thu nhập cao. Giờ đây, với kinh
nghiệm và kỹ thuật nuôi chim bồ câu của mình, anh Lắm đã tạo
được uy tín không chỉ trong vùng mà từ khắp các nơi mọi người
đều biết anh như một "ông chùm" chim câu. Liên tục trong
những ngày qua rất nhiều người tìm đến đặt mua giống chim câu
với số lượng nhiều và học hỏi kinh nghiệm nuôi chim của anh.
Hơn thế nữa, hiện anh Lắm đang chuẩn bị mở rộng quy mô
chuồng trại nuôi để kịp thời cung cấp đủ lượng chim thịt
cho các cơ sở làm cháo dinh dưỡng trẻ em và các nhà hàng khắp nơi
đang nô nức tìm đến đặt hàng.

M.Sáng - T.Sơn
Để
uôi bồ câu hiệu quả

Báo nông nghiệp số 57 ra
ngày 20/3/2003

Chim bồ câu là vật nuôi có
giá trị dinh dưỡng khá cao, rất bổ dưỡng cho người già, người
mới ốm đậy, trẻ em suy dinh dưỡng. Nhưng thực tế rất ít người
nuôi và ít ai nghĩ đây là vật nuôi mang hiệu quả kinh tế cao,
có lãi lớn như anh Nguyễn Văn Ơi ở thị trấn Chí Thạnh, huyện
Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Đến thăm nhà, anh vui vẻ cho
biết: So với nuôi lợn, gà, vịt thì nuôi chim bồ câu có lãi cao
nhất. Nhưng đòi hỏi phải chịu khó học hỏi kinh nghiệm. Theo
anh có 4 bí quyết để nuôi thành công đó là:
1. Tập làm quen với kẻ thù:
Chim bồ câu sợ nhất là mèo và rắn, nên tập cho chim làm quen
với chúng bằng cách: Cứ mỗi lần cho chim ăn anh kèm theo con mèo
bên cạnh. Lần đầu cho chim thấy mèo, lần sau bắt 2 con lên tay,
lần nữa thả mèo cùng ăn với chim. Dần dần 2 con gần gũi nhau,
mèo không vồ chim, chim không sợ mèo. Bằng cách đó anh dùng con
rắn nhựa làm quen với chim, cho rắn vào chuồng chim. Cứ như thế
đàn chim của anh coi mèo, rắn là bạn bè vì thế mà không bỏ đi
nơi khác.

2Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 11:06 am

macsuong

macsuong
,
,

2. Giữ chim ở lại chuồng
tránh tình trạng chim bay bỏ chủ mà đi chủ khác:
Theo anh để
giữ chúng cần tập cho chim quen hơi chủ bằng cách nuôi chim càng
non càng tốt.
3. Thường xuyên thăm nom các
ổ chim mới nở tạo cho chim không bị sốc về sau, chim trở nên
“dạn" gần gũi với chủ hơn.
4. Cho ăn đúng giờ tạo thói
quen, dù có đi ăn xa khi đến giờ ăn chim rủ nhau về nhà để ăn
thức ăn quen thuộc của chủ.
Ngoài ra vấn đề thức ăn
cho chim bồ câu rất đơn giản, gồm có: Bắp hạt, thóc, đậu
các loại và cám tổng hợp khi chim chuẩn bị vào kỳ đẻ trứng.
Bình quân lượng thức ăn cho 1 con chỉ từ 0,1-0,15g.
Về khả năng sinh sản, theo
anh Ơi muốn chim đẻ đều, tỷ lệ nở cao, con khỏe, nuôi chóng
lớn thì cần cho chim ăn đầy đủ, nhất là cám tổng hợp. Nếu
nuôi tốt 1 con bồ câu mái sau 4 -5 tháng tuổi bắt đầu đẻ lứa
đầu, mỗi lứa đẻ 2 trứng. Sau khi ấp 16 - 18 ngày sẽ nở. Chim
con sẽ được giao cho chim trống nuôi dưỡng. Chim mái nghỉ dưỡng
sau 7- 10 ngày thì đẻ lứa tiếp theo. Cứ như thế 1 cặp bồ câu
bố mẹ sau 1 năm cho ra đời 17 cặp con cháu. Đến nay đàn bồ
câu gia đình anh Ơi lên tới 500 con. Với giá cả hiện nay 15.000 -
20.000 đồng/cặp, quả là một con số không nhỏ chút nào.
Nguyễn Thị Hường
Từ 10 đôi chim bồ câu...
Báo nông nghiệp số
187 ra ngày 7/10/2002

Ông Hoàng Văn Phú
ở thôn Bốn xã Hoàng Xá, một xã miền núi công giáo toàn tòng
của huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) có đến 10 người con, các con đều
đã trưởng thành. Ông bà vẫn ở ngôi nhà cũ lợp lá, với vài
ba sào ruộng khoán, ông đan lát kiếm thêm, bà chợ búa, bán lặt
vặt đời sống cũng tàm tạm. Năm 1996 ông bàn với bà nuôi thêm
con gì đấy... Bắt đầu ông nuôi chim bồ câu. Ông mua được 10
đôi, dành hẳn gian buồng trước đây bà vẫn nằm mở cửa trước
treo hệ thống chuồng. Chỉ sau một năm đàn chim phát triển lên
gần một trăm đôi. Chuồng treo chồng lên nhau, chật 4 bức tường
trong buồng, ngoài hiên vẫn không đủ chỗ cho bọn chúng. Ông
phải dành thêm gian bếp nữa mới đủ. Từ đó đến nay đã 6 năm,
đàn chim ổn định không dịch bệnh, thất thoát. Mỗi tháng cho 50
ôi khoảng 100 con, mỗi con bán 10 ngàn đồng.

Cũng trong gian buồng
này ở dưới đất ông nuôi thỏ và chuột bạch. Ông mua 10 ngàn
một con thỏ con, nuôi 3 tháng, mỗi con nặng 2,5 kg bán 50 ngàn đồng/con.
Mỗi lứa nuôi 10 con. Năm dăm lứa cũng lãi được vài triệu. Còn
chuột bạch ông nuôi để đến tháng 4 hàng năm bán cho các trường
(đã đăng ký) làm giải phẫu.
Ông còn có một số
chuồng nuôi chăn mắt võng. Mỗi năm ông chỉ nuôi khoảng chục
con, vừa với khả năng kiếm thức ăn của ông cho bọn chúng.
Chúng ăn chuột, ông đánh chuột ở các cánh đồng trước nhà,
chuột bị giữ lại không chết, đem về ông thả nuôi ngay trong
các chuồng nuôi trăn. Được ăn đủ, chuột phát triển nhanh béo.
Lúc nào đói trăn bắt ăn tự do, chán thì thôi, nên trăn cũng tăng
trọng khá. Trăn giống ông mua từ dăm lạng đến 1 cân. Nuôi 1 năm
mỗi con được trên dưới 1 yến. Giá tại chỗ 60 ngàn một cân,
mỗi con ông cũng lãi dăm trăm ngàn.

Mấy năm gần đây,
trừ mọi chi phí, ông bà thu lãi không dưới 20 triệu đồng mỗi
năm.

Trần Nguyễn
Nuôi chim bồ câu
Lao động số 127 Ngày 20.05.2002
Chim bồ câu là loại chim cảnh
đẹp lại dễ nuôi và có giá trị dinh dưỡng cao. Nuôi chim theo mô
hình nhỏ thuộc hộ gia đình được chị Ngô Thị Bản ở tổ 8B
– khu 11, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng áp dụng có hiệu quả.

Nuôi chim bồ câu không yêu cầu nhiều về tiền vốn, chỉ
cần khoảng 400.000-500.000 đồng để mua giống chim con và chi phí
thức ăn, thuốc phòng bệnh cho chim. Bên cạnh đó, chăm sóc chim
tuy không mấy vất vả nhưng đòi hỏi sự cẩn thận và cả lòng
yêu chim. Sau 2-3 tháng chim trưởng thành sẽ bắt đầu đẻ, ấp
trứng, nuôi con, khi chim con biết ăn, đủ lông mao và cất cánh bay
được là có thể xuất chuồng với giá 20.000-25.000 đồng/cặp.

Chị Bản cho biết: Thoạt đầu chị chỉ nuôi vài cặp chim cho vui
làm cảnh. Nhưng sau một thời gian, thấy chim khỏe, sinh sản tốt,
giá cao nên mua thêm giống nuôi đại trà. Từ khi nuôi chim chị có
thêm thu nhập để chi phí cho gia đình và tăng thêm nguồn dinh dưỡng
cho bữa ăn từ thịt chim.

Nuôi chim bồ câu có lẽ không mấy xa lạ nhưng nuôi chim với mô hình
nhỏ chính là bước đi mới đang được nhân rộng trong nhiều
hộ gia đình của huyện.
Hồng Nhung
Nuôi chim bồ câu
Anh Phạm Ngọc Xuân, sinh năm 1955 ở số nhà 561/5C,
khu phố 2, phường An Phú Đông - quận 12 - TP.HCM, được xem như là
gương mặt điển hình trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi. Anh đã từng là một công nhân nghỉ giảm biên chế. Cuộc
sống gặp rất nhiều khó khăn. Vợ đi mua từng bó rau đem bán để
kiếm sống qua ngày. Nhờ đức tính chịu khó, cần cù, tích cóp
được số vốn nho nhỏ, anh trồng mía, hoa lài, nuôi gà, heo nhưng
do heo liên tục rớt giá, mặt khác nuôi heo lại ô nhiễm môi trường.
Nhất là khi đất quận 12 đang trong quá trình đô thị hóa, điều
kiện về vệ sinh môi trường ngày càng gắt gao. Điều đó đã thôi
thúc anh chuyển sang nuôi chim bồ câu bán giống và bán thịt,
trồng mai ghép.
Năm 1999, tình cờ anh qua nhà ông Ba Đặng chơi,
thấy ông nuôi chim bồ câu xem ra cũng hiệu quả. Anh liền mua 60
cặp về nuôi thử nghiệm. Lúc đầu nuôi cũng hơi bỡ ngỡ sau
quen dần, thấy dễ nuôi, đặc biệt chim sinh sản rất nhanh. Nhờ
kỹ thuật chăm sóc tốt, tỷ lệ đẻ cao, nở tốt. Dần dần
trại chim lên tới 1.500 cặp. Qua tâm sự anh cho biết, cũng nhờ
Hội Nông dân quận thường xuyên mở các lớp tập huấn, đi tham
quan các mô hình làm kinh tế, bản thân chịu khó học hỏi, đúc
kết kinh nghiệm, nên theo anh thực ra nuôi chim bồ câu rất đơn
giản, hiệu quả kinh tế cao.
Về con giống, anh nuôi giống của Hà Lan, Anh, Pháp,
Nhật. Thức ăn: Rất đơn giản chỉ cần dùng cám gà thịt và cám
gà đẻ trộn lại cho ăn ngày 2 lần, sáng, chiều. Có một máng nước
đổ đầy uống cả ngày. Chuồng trại: Có mái cao ráo, thoáng mát,
lồng làm bằng dây kẽm (dây thép) 2ml, rộng 45 cm, cao 50 cm, hàn thành
hình ô vuông, làm 4 tầng, dài tùy theo khổ đất. Mỗi chuồng nuôi
2 cặp. Chim bồ câu đẻ trứng, ấp 15-17 ngày trứng nở. Sau khi
nở 10 ngày sau chim đẻ lại. Bí quyết thành công là kiểm tra nghiêm
ngặt, nhất là phương pháp tuyển lựa trứng, ghi chép số
chuồng, ngày đẻ. Trứng đẻ 5 ngày phải soi, nếu trứng không có
trống loại bỏ ngay, trứng còn lại chuyển qua cặp đẻ cùng ngày
để ấp. Khi 3 cặp chim nở, sẽ tách một cặp con dồn cho hai
cặp nuôi. Cặp còn lại 7 ngày sau đẻ tiếp (kỹ thuật dồn
trứng, dồn con). Chim từ khi nở nuôi 15-20 ngày là bán được.
Hiện nay, giá chim thịt ( ra ràng) bán được 20.000 đ/con, chim
giống 30.000 đ/con, chim bố mẹ 150.000 đ/cặp. Số chim thịt chỉ
đủ cung cấp cho hai nhà hàng. Thức ăn rơi vãi, anh tận dụng nuôi
hàng trăm con gà Lương Phượng, đặc biệt phân chim bồ câu ủ để
bón hoa, kiểng, cây ăn trái. Nếu dư, anh bán với giá 10.000 đ/bao.
Với tổng diện tích 1,2 ha. Ngoài việc nuôi chim
hiệu quả, anh còn trồng hàng ngàn chậu hoa mai ghép, cây kiểng, cây
ăn trái. Mô hình làm kinh tế này được đông đảo nông dân trong
và ngoài quận đến tham quan, học hỏi kinh nghiệm. Anh rất sẵn sàng
trao đổi, chỉ những bí quyết để mọi người cùng làm.
Một năm trừ chi phí, anh thu trên 300.000.000đ, 4 năm
liền đạt danh hiệu nông dân SX kinh doanh giỏi cấp thành phố.
NNVN, 12/2003

3Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:18 pm

macsuong

macsuong
,
,

Một số bệnh quan trọng ở bồ câu nhập nội
PGS.Ts. Phạm Sỹ Lăng, Ts. Trần Công Xuân, P.Ts. Nguyễn Thiện
Trung tâm nghiên cứu Gia cầm Thụy phương - Viện Chăn Nuôi

(Tài liệu tập huấn chăn nuôi Gia cầm Việt Nam tổ chức tại Vĩnh phú 5/10/2000)



1. Bệnh thương hàn (Salmonellosis)
Bệnh thương hàn ở bồ câu đã được phát hiện và nghiên cứu ở Hoa
Kỳ và một số nước Châu Âu (Pomeroy và Nagaraja, 1991). Đây là
một bệnh chung của bồ câu, gà, ngan, ngỗng, vịt với hội
chứng viêm ruột, ỉa chảy (Levcet, 1984).
1.
Nguyên nhân

Bệnh
gây ra do vi khuẩn Salmonella gallinacerum S. enteritidis thuộc họ
Enterbacteriacae. Vi khuẩn là loại trực khuẩn nhỏ, ngắn có kích
thước: 1-2x1,5 micromet, thường chụm 2 vi khuẩn với nhau, thuộc
gram âm (-), không sinh nha bào và nang (Copsule). Vi khuẩn có thể nuôi
cấy, phát triển tốt ở môi trường thạch nước thịt và
peptone, độ pH=7,2, nhiệt độ thích hợp 370C.
Vi khuẩn sẽ bị diệt ở nhiệt độ 600C trong 10 phút, dưới ánh sáng
mặt trời trong 24 giờ. Nhưng có thể tồn tại 20 ngày khi đặt
trong bóng tối. Các hoá chất thông thường diệt được vi khuẩn
như: axit phenol -1/1000; chlorua mercur-1/20.000; thuốc tím 1/1000 trong
3-5 phút.
2. Bệnh lý và lâm sàng
Trong tự nhiên có một số chủng Salmonella gallinacerum có độc lực
mạnh, gây bệnh cho bồ câu nhà, bồ câu rừng, gà, vịt và nhiều
loài chim trời khác.
Bồ câu nhiễm vi khuẩn qua đường tiêu hoá. Khi ăn uống phải thức
ăn hoặc nước uống có vi khuẩn, bồ câu sẽ bị nhiễm bệnh. Vi
khuẩn vào niêm mạc ruột, hạch lâm ba ruột, phát triển ở đó,
tiết ra độc tố. Độc tố vào nước, tác động đến hệ thần
kinh trung ương, gây ra biến đổi bệnh lý như nhiệt dộ tăng cao,
run rẩy. Vi khuẩn phát triển trong hệ thống tiêu hoá gây ra các
tổn thương niêm mạc ruột, cơ ruột, làm cho ruột bị viêm và
xuất huyết. Trong trường hợp bệnh nặng, vi khuẩn xâm nhận vào
máu gây ra hiện tượng nhiễm trùng máu.
Bồ câu có thời gian ủ bệnh từ 1-2 ngày, thể hiện: ít hoạt động,
kém ăn, uống nước nhiều. Sau đó, thân nhiệt tăng, chim đứng
ủ rũ một chỗ, thở gấp, đặc biệt là ỉa chảy, phân màu xanh
hoặc xám vàng, giai đoạn cuối có lẫn máu. Chim sẽ chết sau 3-5
ngày.
Mổ khám chim bệnh, thấy: các niêm mạc bị sưng huyết; niêm mạc
diều, dạ dày tuyến và ruột tụ huyết từng đám. ở ruột non và
ruột già còn thấy niêm mạc bị tổn thương, tróc ra và có các
điểm hoại tử ở phần ruột gà. Chùm hạch lâm ba ruột cũng
bị tụ huyết.
3. Đặc điểm dịch tễ
Hầu hết các loài gia cầm như bồ câu, gà, vịt, ngan, ngỗ, chim cút...
cũng như nhiều loại chim trời đều nhiễm S. gallinacerum và bị
bệnh thương hàn. Các nhà khoa học đã làm các thực nghiệm tiêm
truyền S. gallinacerum cho 382 loài chim thuộc 20 nhóm chim, kết quả có
367 loài bị phát bệnh, chiếm tỷ lệ 96%.
Chim
ở các lứa tuổi đều có thể bị nhiễm vi khuẩn. Nhưng chim non
dưới một năm tuổi thường thấy phát bệnh nặng và chết với
tỷ lệ cao (50-60%).
Bệnh
lây chủ yếu qua đường tiêu hoá. Nhưng cũng lây qua trứng khi
bồ câu mẹ bị nhiễm bệnh. ở các khu vực nuôi gà cùng với
bồ câu trong cùng chuồng trại và môi trường sinh thái, bồ câu
thường bị lây nhiễm mầm bệnh từ gà bệnh.
Bệnh
có thể lây nhiễm quanh năm. Nhưng thường thấy vào các tháng có
thời tiết ấm áp và ẩm ướt trong mùa xuân, đầu mùa hè và
cuối mùa thu.
4.
Chẩn đoán

- Chẩn đoán lâm sàng: Căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng: Chim
ốm có tính chất lây lan với biểu hiện như ỉa lỏng phân xám vàng
hoặc xám xanh, có lẫn máu. Khi mổ khám chim ốm thấy: tụ huyết,
xuất huyết và tổn thương các niêm mạc đường tiêu hoá.
- Chẩn đoán vi sinh vật: thu thập bệnh phẩm, nuôi cấy để phân
lập vi khuẩn S. gallinacerum.
5. Điều trị

Phác đồ 1:
- Thuốc điều trị: Chloramphenicol dùng liều 50mg/kg thể trọng;
thuốc pha với nước theo tỷ lệ: 1 thuốc + 10 nước; cho chim
uống trực tiếp. Cho uống thuốc liên tục trong 3-4 ngày.
- Thuốc trợ sức: cho uống thêm vitamin B1,C, K.
- Hộ lý: Để tránh tổn thương niêm mạc tiêu hoá, cần cho chim ăn
thức ăn mềm dễ tiêu như thức hỗn hợp dạng bột hoặc trong
thời gian điều trị; thực hiện cách ly chim ốm và chim khoẻ; làm
vệ sinh, tiêu độc chuồng trại.

Phác
đồ 2:


-
Thuốc điều trị: Dùng phối hợp hai loại thuốc: Tetracyclin:
liều 50 mg/kg thể trọng.
Bisepton:
liều 50 mg/kg thể trọng.
Thuốc có thể pha thành dung dịch đổ cho chim uống trực tiếp, liên
tục trong 3-4 ngày.
- Thuốc trợ sức: như phác đồ 1.
- Hộ lý: như phác đồ 1.
6. Phòng bệnh
- Khi có bệnh xảy ra cần cách ly chim ốm để điều trị; chim ốm
chết phải chôn có đổ vôi bột hoặc nước vôi 10%, không được
mổ chim ốm gần nguồn nước và khu vực nuôi chim. Toàn bộ số
chim trong chuồng có chim ốm cho uống dung dịch chloramphenicol 2/1000
hoặc sulfamethazone 5/1000 trong 3 ngày liền.
- Khi chưa có dịch: thực hiện vệ sinh chuồng trại và vệ sinh môi
trường; nuôi dưỡng chim với khẩu phần ăn thích hợp và đảm
bảo thức ăn, nước uống sạch.
2. Bệnh giả lao ở
bồ câu (Pseudotuberculosis)

Bệnh giả lao ở các loài gia cầm và chim hoang, trong đó có bồ câu đã
được biết đến từ lâu (Riech, 1889), nhưng mãi đến 1904, Kynyoun
(1904) mới phân lập được vi khuẩn gây bệnh, gọi là Yersinia
pseudotuberculosis
(vi khuẩn giả lao).
1.
Nguyên nhân

Tác
nhân gây bệnh giả lao ở bồ câu là Yersinia pseudotuberculosis. Vi
khuẩn này có các đặc tính gần giống vi khuẩn tụ huyết trùng
nên còn gọi là Pasteurella pseudotuberculosis. Vi khuẩn thuộc gram âm,
tròn hai đầu, có kích thước 0,5x0,8-5 micromet, còn gọi là vi
khuẩn lưỡng cực vì khi nhuộm bắt màu sẫm ở hai đầu. Vi
khuẩn phát triển tốt trên môi trường thạch pepton, thạch máu có
thêm một số axit amin và thích hợp ở nhiệt độ 370C.
Vi khuẩn dễ dàng bị diệt dưới ánh sáng mặt trời, ở nhiệt độ
600C hoặc làm khô. Nhưng có thể bảo quản hàng năm trong môi trường
thạch để ở nhiệt độ lạnh.
Hiện
có 6 serotyp vi khuẩn đã được xác định là typ I, II, III, IV, V,
VI và 8 subtyp gây bệnh cho một số loài chim và thú.
2.
Bệnh lý và lâm sàng

Chim
bị nhiễm vi khuẩn chủ yếu qua đường tiêu hoá. Vi khuẩn tồn
tại và lưu hành trong môi trường tự nhiên và thức ăn. Chim ăn
uống phải thức ăn nước uống bị nhiễm vi khuẩn sẽ bị mắc
bệnh. Vi khuẩn cũng xâm nhập vào cơ thể chim qua đường hô
hấp, do hít thở không khí có vi khuẩn.
Vào
cơ thể chim, vi khuẩn nhanh chóng xâm nhập vào hệ thống hạch lâm
ba, phát triển nhanh số lượng, rồi vào máu, đến các phủ tạng
như gan, lách, phổi, thận và ruột. Các trường hợp bệnh cấp tính,
vi khuẩn tăng số lượng, rồi vào máu, đến các phủ tạng như
gan, lách, phổi, thận và ruột. Các trường hợp bệnh cấp tính,
vi khuẩn tăng số lượng rất nhanh trong máu, gây nhiễm trùng
huyết. Khi đến các phủ tạng, vi khuẩn sẽ tồn tại ở đó gây
ra hiện tượng viêm nhiễm với các hạt nhỏ có chứa bựa vàng xám,
giống như các hạt lao dạng "lao kê". Các hạt này đôi
khi cũng có ở tổ chức cơ.
Chim
nhiễm mầm bệnh có thời gian ủ bệnh ngắn, chỉ 1-2 ngày. Chim
bệnh có biểu hiện tăng thân nhiệt, bỏ ăn, niêm mạc tụ huyết
đỏ sẫm, mắt nhắm, đứng ủ rũ, thở khó, chảy nước mũi, nước
mắt; sau đó xuất hiện ỉa chảy phân xanh vàng. Bệnh tiến
triển nhanh. Chim bệnh chết sau 2-4 ngày, từ khi xuất hiện các
dấu hiệu lâm sàng đầu tiên.
Mổ
chim bệnh thấy: bao tim có tụ huyết, đôi khi có dịch vàng;
phổi, lách, gan và các niêm mạc có tụ máu. Các phủ tạng và đôi
khi ở cơ còn có các hạt giống hạt kê, hoại tử có màu vàng xám.
Các trường hợp nhiễm trùng huyết thấy: máu đỏ sẫm, chậm đông,
các niêm mạc tím đỏ.
3.
Dịch tễ học

Trong
tự nhiên, nhiều loài gia cầm và chim trời bị bệnh giả lao như
gà nhà, gà rừng, ngỗng, vịt, gà tây, bồ câu, vẹt... Nhiều
loại thú nhỏ cũng nhiễm pseudotuberculosis như: khi, chuột lang,
thỏ, chuột bạch... khi tiêm truyền thực nghiệm.
Bồ câu non dưới một năm tuổi thường nhiễm vi khuẩn và bị bệnh
thể cấp tính.
Bệnh thường phát tra và lây lan trong đàn chim khi thời tiết lạnh và
ẩm ướt.
4. Chẩn đoán
- Chẩn đoán lâm sàng. Căn cứ vào các dấu hiệu lâm sàng và bệnh
tính đặc trưng để chẩn đoán: bệnh tiến triển nhanh với các
triệu chứng như thở khó, chảy rãi rớt, ỉa chảy phân xanh vàng
hoặc vàng đục; mổ khám có các đám tụ huyết ở các nội
tạng; đặc biệt có các hạt nhỏ hoại tử có bựa vàng xám.
- Chẩn đoán vi sinh vật. Phân lập, xác định vi khuẩn từ các
mẫu bệnh phẩm là dịch xuất tiết hoặc phủ tạng chim bệnh.
5. Điều trị
Điều trị ít có hiệu quả, vì bệnh tiến triển nhanh. Khi phát hiện các
dấu hiệu lâm sàng đầu tiên thì chim đã bị rất nặng, khó
chữa. Khi phát hiện một vài chim bị bệnh thì cần phải điều
trị có tính chất phòng ngừa cho toàn đàn.

Phác đồ điều trị:
- Thuốc điều trị: Phối hợp hai loại thuốc sau:
Kanamycin 2 gam
Tetracyclin 2 gam
Nước 1000 ml
Cho toàn đàn chim uống liên tục 3-4 ngày.
- Thuốc trợ tim mạch: tăng sức đề kháng: cho uống hoặc trộn
thức ăn các vitamin B1, K, A, D, E.
- Hộ lý: Cho chim ăn thức ăn dễ tiêu, bớt ăn các loại hạt.
6. Phòng bệnh
- Thực hiện cho chim ăn sạch, uống sạch.
- Giữ gìn vệ sinh chuồng trại và môi trường sống của chim, cần
làm vệ sinh và tiêu độc theo định kỳ.
- Khi có dịch xảy ra: Phát hiện sớm chim bệnh để cách ly điều
trị hoặc xử lý, tránh lây nhiễm cho đàn chim.
- Tổ chức tiêm vacxin phòng bệnh cho đàn chim trưởng thành khi có
vacxin phòng bệnh giả lao.
3. Bệnh viêm đường hô hấp mãn
(Mycoplasmosis)

ở nhiều cơ sở nuôi chim bồ câu thịt và bồ câu cảnh thuộc các nước
Mỹ, Pháp, Hà Lan... người ta đã phát hiện bệnh viêm đường hô
hấp mãn do Mycoplasma gây ra. Tuy nhiên, bệnh không lưu hành rộng như
bệnh viêm đường hô hấp mãn tính ở gà nuôi theo phương thức công
nghiệp.

4Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:19 pm

macsuong

macsuong
,
,

1. Nguyên nhân
Đến nay, người ta đã phân lập, đặt tên và định typ được 19
chủng thuộc Mycoplasma gây bệnh cho các loài gia cầm như gà, gày tây,
ngỗng, vịt và bồ câu. Trong số đó có 3 chủng gây bệnh được
phân lập từ bồ câu là: Mycoplasma columbinasale; M. columbinum và M.
columborale; (Harry W. và Yoder J. 1991).
Mycoplasma là vi sinh vật có kích thước nhỏ trung gian giữa vi khuẩn và
virut, khoảng 0,2-0,5 micromet; bắt màu hồng khi nhuộm Giemsa; có
thể nuôi cấy trên một số môi trường thạch đặc biệt và
khuẩn lạc mọc chậm sau 10-15 ngày. Mycoplasma cũng mới cấy được
trên màng nhung niệu của phôi trứng gà.
2. Bệnh lý và lâm sàng
Mycoplasma xâm nhập vào cơ thể chim qua niêm mạc đường hô hấp như niêm
mạc mũi và phế quản khi hít thở không khí có mầm bệnh. Từ niêm
mạc, Mycoplasma tiến đến các hạch lâm ba đường hô hấp như
hạch hầu, hạch phổi, phát triển ở đó rồi vào các phế nang.
Chim khoẻ, được nuôi dưỡng tốt, trong các điều kiện sinh thái
thích hợp thì mầm bệnh không gây tác hại rõ rệt, chỉ tồn
tại trong trạng thái mang trùng của chim. Khi các điều kiện sinh
thái thay đổi, có các yếu tố stress làm giảm sức đề kháng
của chim thì Mycoplasma bắt đầu gây ra các biến đổi bệnh lý
đường hô hấp của chim.
Chim
bệnh có các dấu hiệu đầu tiên như chảy nước mũi, nước
mắt, ăn kém; sau đó xuất hiện thở khó, thở nhanh... Hiện tượng
này tăng dần và chim gầy dần, giảm tăng trọng rõ rệt. Các trường
hợp cấp tính chim sẽ chết sau 10-15 ngày và thường thấy ở chim
non 1-4 tháng tuổi. Chim bị bệnh mãn tính, thời gian hành bệnh kéo
dài hàng tháng với các triệu chứng thở khó, gầy rạc. Các trường
hợp bị nhiễm khuẩn đường hô hấp thứ phát do các liên cầu
(Streptococcus) tụ cầu (Staphilococcus) và Heamophilus spp chim bị viêm
phế quản phổi nặng và chết nhanh sau 10-12 ngày.
Mổ
khám chim bệnh, thấy bệnh tính tập trung ở đường hô hấp,
phổi tụ máu, có dịch nhày trong các phế quản và phế nang;
hạch phổi sưng thũng có tụ huyết rõ rệt.
3.
Dịch tễ học

Bệnh
thường thấy ở bồ câu trong điều kiện chăn nuôi nhốt và tập
trung; không khí nóng ẩm hoặc lạnh ẩm làm giảm sức đề kháng
của chim.
Bồ
câu nội rất ít thể hiện bệnh viêm đường hô hấp mãn tính; mà
thấy bệnh xảy ra ở các giống bô câu thịt, bồ câu cảnh nhập
nội, chưa thích nghi với các điều kiện sống mới. Bệnh thường
thấy ở bồ câu non từ 1-6 tháng. Bồ câu trưởng thành có sức
đề kháng với bệnh.
4. Chẩn đoán
- Chẩn đoán lâm sàng: Căn cứ theo các dấu hiệu lâm sàng và bệnh
tích thể hiện ở bộ máy hô hấp như thở khó, gầy yếu và suy
nhược dần để chẩn đoán.
- Chẩn đoán vi sinh vật và huyết thanh: Phân lập mầm bệnh từ
bệnh phẩm qua các môi trường nuôi cấy; làm các phản ứng
huyết thanh học như ngưng kết trực tiếp hoặc gián tiếp để xác
định bệnh.
5.
Điều trị

Hiện nay, có nhiều loại kháng sinh có thể dùng điều trị bệnh
Mycoplasmosis ở gia cầm và chim trời như Streptomycin, erytromycin,
chlormphenicol, kagnamycin, tylosin, spectinomycin. Nhưng hai loại kháng
sinh sau đây được điều trị rộng rãi và cho hiệu quả cao là:
Tylosin: dùng liều 10mg/kg thể trọng, tiêm bắp thịt hoặc dùng liều 1g
pha trong 1 lít nước cho uống liên tục 3-5 ngày.
Tiamulin: dùng liều 15mg/kg thể trọng, tiêm bắp thịt hoặc dùng liều 2g
pha trong 1 lít nước cho uống liên tục 3-5 ngày.
Cần cho chim bệnh uống hoặc trộn thức ăn các loại vitamin B1, C, A, D,
E để tăng sức đề kháng.
Hộ lý: cần giữ khu chuồng nuôi bồ câu khô sạch, thoáng mát mùa hè
và ấm áp trong mùa đông và cho ăn đúng khẩu phần qui định.
6.
Phòng bệnh

-
Phòng nhiễm bằng hoá dược: nơi có lưu hành bệnh có thể sử
dụng hai kháng sinh trên hoặc oxytetracylin pha với nước 2g/lít nước
cho chim uống mỗi tháng một lần; một lần 2 ngày liền.
-
Thực hiện vệ sinh chuồng trại và môi trường chăn nuôi.
-
Nuôi dưỡng chim với khẩu phần ăn đầy đủ chất dinh dưỡng các
vitamin và muối khoáng.
4. Bệnh đậu (Pox disease)
Bệnh đậu được phát hiện ở hầu hết các loài gia cầm và chim
trời, phân bố rộng khắp ở các châu lục. Bồ câu là một trong
các loài chim thường thấy mắc bệnh đậu gây ra do virut đậu.
1.
Nguyên nhân

Tác
nhân gây bệnh? là một virut thuộc nhóm đậu gà Avian poxvirus, họ
Poxviridac. Hiện nay, người ta phân lập được nhiều chủng virut
đậu gây bệnh cho các loài gia cầm và 60 loài chim trời thuộc 20
họ khác nhau, trong đó có chủng gây bệnh cho bồ câu. (Deoki và
Tripathy, 1991).
Virut
đậu rất mẫn cảm với eter và chloroform. Các hoá chất sau đây có
thể diệt được virut: phenol-1% formalin 1/1000 sau 9 ngày; dung dịch
NaOH -1% chi trong nửa giờ. ở nhiệt độ 600C, virut bị chết sau 8
phút. Trong nhiệt độ lạnh âm virut có thể tồn tại hàng năm.
2.
Bệnh lý và lâm sàng

Virut
xâm nhập vào cơ thể bồ câu chủ yếu qua tiếp xúc ngoài da.
Virut cũng xâm nhập niêm mạc đường hô hấp như niêm mạc mũi,
niêm mạc phế quản khi bồ câu hít thở không khí có nhiễm mầm
bệnh. Virut phát triển ở các tế bào biểu bì da, xung quanh các
bao lông và niêm mạc miệng, vòm khẩu cái, tạo ra các nốt sùi đặc
trưng cho bệnh đậu. Các nốt đậu đầu tiên đỏ, sau mọng mủ
trắng, vỡ ra, chảy dịch vàng, để lại nốt loét trên niêm mạc
hoặc trên mặt da, đóng vảy màu nâu. Các mụn đậu cũng lan đến
niêm mạc mắt, sưng to, vỡ ra làm nổ mắt vật bệnh.
Biến
chứng nguy hiểm cho chim bệnh là các mụn đậu phát triển ở
phế quản phổi, gây viêm phổi cấp do bội nhiễm các vi khuẩn
đường hô hấp. Một số trường hợp, virut đậu còn xâm nhập
đường tiêu hoá, gây các tổn thương niêm mạc dạ dày và ruột.
Chim bệnh có biến chứng hô hấp hoặc tiêu hoá sẽ phát bệnh
nặng, chết trong khoảng thời gian 3-5 ngày và tỷ lệ chết 100%.
Bình
thường chim bị bệnh đậu, các biểu hiện lâm sàng cũng như các
mụn đậu sẽ giảm dần và hồi phục sức khoẻ sau 7-10 ngày,
tỷ lệ chết 15-20%.
3.
Dịch tễ học

Chim
ở các lứa tuổi đều có thể mắc bệnh đậu. Nhưng thường
thấy chim non 1-6 tháng bị nhiễm bệnh nhiều hơn.
Mỗi loài chim hoặc họ chim đều có các chủng virut gây bệnh riêng
biệt. Nhưng các chủng virut này cũng có thể nhiễm chéo giữa các
giống loài động vật. Chẳng hạn virut đậu gà (Avian poxvirus) có
thể gây nhiễm cho bồ câu và ngược lại.
Bệnh đậu cũng là một trong các bệnh virut phổ biến gây nhiều thiệt
hại cho bồ câu non. Bệnh đậu phát triển quanh năm. Nhưng thường
xuất hiện nhiều vào mùa xuân có khí hậu ấm, ẩm ướt và mùa
thu chuyền sang mùa đông.
4. Chẩn đoán
- Chẩn đoán lâm sàng: có thể quan sát các mụn đậu ở mặt da và
các niêm mạc đường hô hấp trên để xác định bệnh đậu.
- Chẩn đoán virut: phân lập virut hoặc làm phản ứng huyết thanh để
chẩn đoán bệnh đậu.
5. Điều trị bệnh
Hiện không có thuốc điều trị đặc hiệu cho virut đậu. Nhưng có
thể sử dụng một số hoá dược bôi lên các mụn đậu để
chống nhiễm khuẩn và sử dụng kháng sinh để điều trị chim
bệnh có hội chứng hô hấp cũng do nhiễm khuẩn.
- Thuốc bôi lên các mụn đậu: Bleu-methylen 5/1000;
Lugol 5/1000
Hàng ngày bôi lên các mụn đậu ngoài da của chim bệnh.

Điều trị nhiễm khuẩn thứ phát:
Sử dụng một trong hai kháng sinh sau đây tiêm hoặc pha nước cho
uống:
Tiamulin: Liều 10mg/kg thể trọng, tiêm bắp thịt liên tục 3-4 ngày hoặc
liều 1g/lít nước cho uống liên tục 3-4 ngày.
Oxytetracyclin:
Liều 20mg/kg thể trọng, tiêm bắp liên tục 3-4 ngày.
Cần cho chim uống thêm vitamin B1, C, A, D.
Nuôi dưỡng và chăm sóc tốt chim bệnh.
6.
Phòng bệnh

-
Phòng bệnh bằng vacxin, chủng vacxin đậu nhược độc vào dưới
da cho chim hoặc nhỏ vào lông cánh và bôi dung dịch vacxin vào đó.
Vacxin thường dùng là vacxin virut đậu nhược độc.
-
Thực hiện vệ sinh chuồng trại và môi trường; giữ chuồng luôn
khô sạch, thoáng mát mùa hè, ấm áp mùa đông.

5Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:20 pm

macsuong

macsuong
,
,

Một số bệnh quan trọng ở bồ câu nhập nội
(tiếp theo)


5. Bệnh viêm đường hô hấp do Herpes virus (Pigeon Herpesvirus infection)
Bệnh
viêm đường hô hấp do Herpesvirus ở bồ câu đã được biết đến
từ 1945 khi nghiên cứu gen của một bồ câu bệnh. Nhưng mãi đến
1967, Herpesvirus mới được phân lập (Coruell và Wright, 1970). Hiện
nay, người ta đã xác định rằng: bệnh phổ biến và được phân
bố rộng khắp thế giới.
1. Nguyên nhân
Người ta đã xác định bệnh viêm đường hô hấp gồm viêm thanh khí
quản và viêm hoại tử mũi họng cấp tính ở bồ câu các nước
Bỉ, Tiệp, Đức, úc, Hungary... là do một virut thuộc nhóm
Herpesvirus nên được gọi là Herpesvirus ở bồ câu.
2. Bệnh lý và lâm sàng
Virut xâm nhập vào cơ thể bồ câu quan niệm mạc đường hô hấp từ
bồ câu bệnh sang bồ câu khẻo một cách trực tiếp. Mặt khác
bồ câu khoẻ cũng có thiết bị nhiễm virut do hít thở không khí
bị nhiễm mầm bệnh.
Virut
phát triển ở niêm mạc mũi, thanh quản và khí quản, xâm nhập vào
các hạch lâm ba khí quản và phổi. Do tác động virut, niêm mạc
đường hô hấp bị tổn thương, loét và chảy dịch nhày trắng
hoặc vàng xám. Một số loài vi khuẩn có sãn ở đường hô hấp
sẽ phối hợp làm cho hiện tượng viêm nặng hơn. Đó là các
Mycoplasma columborale, Pasterella multocida, liên cầu Streptococcus
beta-hemolysin và tụ cầu Staphilococcus betahemolitic.
Virut
cũng tác động đến niêm mạc ruột gây ra hiện tượng viêm
ruột và ỉa chảy.
Bồ
câu bị bệnh ở hai thể:

-
Thể cấp tính: thường thấy ở chim non với các triệu chứng điển
hình như chảy nước mắt, nước mũi, thở khó. Sau đó, miệng và
mũi chim viêm hoại tử, có màng giả, chảy dịch nhày trắng, vàng
xám. Chim bị chết với tỷ lệ sau 7-10 ngày.
-
Thể mãn tính: thường ở chim trưởng thành; các triệu chứng
nhẹ hơn. Một số chim không thể hiện các triệu chứng lâm sàng;
nhưng trở thành vật mang trùng và truyền bá mầm bệnh trong tự
nhiên.
Mổ
chim bệnh thấy: các mụn loét ở miệng, vòm họng, thanh quản. Các
mụn loét này có phủ màng giả là lớp bựa trắng hoặc vàng xám.
Các dịch nhày ở mũi và thanh khí quản đã làm cho khó thở. Các
mụn loét hoại tử có phủ bựu vàng xám cũng thấy ở gan chim
bệnh.
3. Dịch tễ học
Bồ câu ở tất cả các lứa tuổi đều mắc bệnh. Bồ câu hoang đã
cũng mắc bệnh. Nhưng bồ câu cảnh và bồ câu nuôi thịt bị
bệnh năng hơn. Bồ câu non thường bị bệnh thể cấp tính, tỷ
lệ chết cao. Bồ câu trưởng thành bị bệnh thể mãn tính. Nhưng
là vật tàng trữ mầm bệnh và truyền mầm bệnh trong tự nhiên.
4. Chẩn đoán
Hiện nay, người ta vẫn dựa vào các dấu hiệu lâm sàng về viêm có màng
giả và dịch nhày trắng, vàng xám ở các khí quản hô hấp trên
để chẩn đoán bệnh.
- Chẩn đoán miễn dịch. Dùng các phương pháp huyết thanh học như
ngưng kết trực tiếp, huỳnh quang kháng thể để chẩn đoán
bệnh.
5. Điều trị
Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Tuy nhiên, người ta đã
sử dụng hai hoá dược để điều trị bệnh cho bồ câu bệnh có
hiệu quả nhất định (Vindenogel,1982).
- Trisodium phosphonoformate
- Acycloguanosine.
6. Phòng bệnh
- Phòng? bệnh bằng vacxin. Có 2 loại vaxin: vacxin chết và vacxin nhược
độc phòng bệnh viêm đường hô hấp của bồ câu do Hecpervirus.
-
Thực hiện vệ sinh phòng bệnh khu chăn nuôi bồ câu và môi trường.
- Phát hiện sớm chim bệnh, cách ly điều trị, tránh lây nhiễm toàn
đàn.
6. Bệnh giun đũa bồ câu (Ascallidiosi)
Bệnh phân bố hầu hết ở các khu vực trên thế giới.
1.
Nguyên nhân

Giun
đũa Ascallidia columbae (Gmelin, 1970) là tác nhân gây bệnh giun đũa
ở bồ câu.
Vật chủ:Bồ câu
Đặc điểm sinh học
- Nơi ký sinh: diều, ruột non, đôi khi ở thực quản.
- Hình thái: giun cái dài 20-95mm. Giun đực dài 50-70mm, có hai gai giáp
hợp không dài bằng nhau: 1,2-1,9mm.
-
Vòng đời: giun phát triển trực tiếp, không có vật chủ trung
gian, giun cái ký sinh ở ruột non, đẻ trứng, trứng theo phân ra
ngoài gặp các điều kiện thích hợp (có oxy, ẩm độ, nhiệt độ
từ 15-300C) có sẽ phát triển thành ấu trùng trong trứng, gọi là
trứng cảm nhiễm. Chim ăn phải trứng cảm nhiễm, trứng vào dạ
dày tuyến và ruột non của chim sẻ nở thành ấu trùng. ấu trùng
qua niêm mạc di chuyển lên gan, phổi, sau lại trở về ruột, phát
triển thành giun trưởng thành. Từ trước cảm nhiễm phát triển
thành giun trưởng thành, thời gian cần 37 ngày.
Tác hại của giun:
Giun
ký sinh ở ruột non, chiếm đoạt chất dinh dưỡng làm cho chim gà
còm, giảm tăng trọng. Khi số lượng nhiều, giun sẽ di chuyển gây
tổn thương niêm mạc và gây tắc ruột. ấu trùng của gin khi di
chuyển lên phổi và gan sẽ gây tổn thương ở đó và gây ra viêm
nhiễm.

6Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:20 pm

macsuong

macsuong
,
,

2. Điều trị

Có thể tẩy giun bằng một trong hai hoá dược sau:

- Piperazin adipinat: Dùng liều 0,30g/kg thể trọng trộn với thức ăn
cho chim ăn. Sau khi dùng thuốc, giun sẽ ra ngoài sau 3-5 giờ.

- Mebendazol: Dùng liều 0,10g/kg thể trọng; chia 2 lần trộn với
thức ăn cho chim ăn. Giun sẽ ra khỏi ruột 4-6 giờ sau khi tẩy.

3.
Phòng bệnh


- Tẩy định kỳ cho toàn đàn chim: 4-6 tháng/lần bằng piperazin.

-
Thực hiện vệ sinh chuồng trại và môi trường sống của chim.

7. Bệnh giun ở diều (Epomiostomiosls)

1. Nguyên nhân

Tác nhân gây bệnh Epomidiostomum uncinatum (Lundhal, 1841).

Vật chủ: Bồ câu, vịt, ngỗng

Đặc điểm sinh học

- Vị trí ký sinh: niêm mạc của diều.

- Hình thái: Giun đực: 6,5-7,3mm x 150 micromet. Gai giao hợp dài 120-190
micromet. Giun cái 2,0-11,5mm x 230-240 micromet. Đuôi dài 140-170 micromet.
Trứng: 74-90x45-50 micromet.

- Vòng đời: Giun phát triển trực tiếp không có vật chủ trung
gian. Trứng ra ngoài tự nhiên phát triển thành ấu trùng giai đoạn
III sau khi nở 4 ngày, có thể cảm nhiễm cho bồ câu.

Tác hại: Giun ký
sinh gây ra tổn thương ở diều của chim, có thể gây viêm diều
do nhiễm khuẩn thứ phát.

2. Điều trị

Tẩy giun bằng piperazin adipinat: Liều dùng 0,3g/kg thể trọng: trộn
thuốc với thức ăn hoặc cho uống trực tiếp.

3. Phòng bệnh

Quy
trình phòng bệnh giống như phòng bệnh giun đũa.

8. Bệnh giun tóc (Capillariosis)

1. Nguyên nhân

Giun tóc Capillaria obsignata (Madsen 1943)

Vật chủ: Bồ câu,
gà, gà tây, ngỗng, gà sao, cút.

Đặc điểm sinh
học


-
Vị trí ký sinh: Ruột non, mạch tràng.

-
Hình thái: Giun đực có kích thước dài 7-13x49mm; rộng 49-53
micromet. Gai giao hợp dài 1,1-1,5 micromet. Giun cái: dài 10-18mm; rộng
80 micromet. Trứng: 44-46x22-29 micromet. Giun có hai phần: phần đầu
nhỏ dài khoảng 1/3 cơ thể chui vào niêm mạc của ruột; phần thân
còn lại ở ruột của vật chủ.

-
Vòng đời: Giun phát triển trực tiếp, không có vật chủ trung
gian. ấu trùng phát triển trong trứng khoảng 13 ngày. Chim ăn
trứng cảm nhiễm, trứng vào ruột nở ra ấu trùng. ấu trùng phát
triển thành giun trưởng thành khoảng 18-21 ngày.

Tác hại

Trong? quá trình ký sinh, giun chui đầu vào niêm mạc ruột gây tổn thương
và viêm ruột do nhiễm khuẩn thứ phát.

2.
Điều trị


Tẩy giun bằng piperazin adipinat: Liều dùng 0,3g/kg thể trọng; trộn với
thức ăn hoặc cho uống trực tiếp.

3. Phòng bệnh

Thực hiện như phòng bệnh giun đũa, giun diều chim.

9. Bệnh giun xoăn (Ornithostrongylosis)

1. Nguyên nhân

Tác nhân gây bệnh là giun. Ornithostrogylus quadriradiatuas (Stivesnon, 1904).

Vật chủ: Bồ câu nhà, bồ câu rừng

Đặc điểm sinh học

- Vị trí ký sinh: ruột non

- Hình thái: Giun có cánh đuôi phát triển, kích thước của giun đực:
dài 8-12mm. Gai giao hợp dài 150-160 micromet. Giun cái có kích thước:
dài 18-24mm.

- Vòng đời: Giun cái sống ở ruột non, sau giao phối đẻ trứng.
Trứng ra ngoài theo phân, phát triển thành ấu trùng sau khi ở ngoài
tự nhiên 19-25 giờ. ấu trùng sau khi nở 2-4 ngày trở thành ấu trùng
cảm nhiễm. Chim ăn phải ấu trùng cảm nhiễm, ấu trùng vào
ruột ký sinh ở đó, phát triển đến trưởng thành. Từ ấu trùng
đến trưởng thành, giun có thời gian phát triển 5-6 ngày.

2.
Điều trị


Tẩy
giun bằng mebendazol: Liều dùng 0,10g/kg thể trọng; chia thuốc làm 2
liều, trộn thức ăn hoặc cho uống trực tiếp vào 2 buổi sáng.

3.
Phòng bệnh


Thực
hiện như phòng bệnh giun đũa.

10. Giun mắt bồ câu
(Oxyspiruriosis)


1.
Nguyên nhân


Tác
nhân gây bệnh làm giun Oxyspirura mansoni (Cobvold 1879)

Vật chủ: Bồ câu,
gà, vịt, gà tây, chim cút, gà tiên.

Đặc điểm sinh
học


-
Vị trí ký sinh: Kết mạc mắt.

-
Hình thái: giun đực có kích thước: dài 8,2-16mm, rộng 350 micromet.
Gai giao hợp 3-4,5mm. Giun cái có kích thước: dài 12-20mm; rộng
270-430 micromet. Trứng 50-65 x 45 micromet.

-
Vòng đời: Giun có vật chủ trung gian là bọ hung Pycnoscelus,
surinamensis. Giun cái sống ở kết mạc mắt, đẻ trứng, trứng
theo các giọt nước mắt rơi vào môi trường tự nhiên. Bọ hung
ăn phải trứng, trứng sẽ phát triển nhanh ấu trùng sau 50 ngày.
Chim ăn phải ấu trùng từ bọ hung, sẽ bị nhiễm giun.

Tác hại

Giun ký sinh gây các tổn thương ở kết mạc mắt, gây viêm nhiễm.
Nếu có nhiễm khuẩn thì những kết mạc có thể viêm mủ, làm
hỏng mắt chim.

2. Điều trị

Dùng dung? dịch tetramisol (2-5%) nhỏ thẳng vào mắt chim. Giun sẽ chui ra
khỏi mắt. Cũng có thể dùng kẹp nhỏ lấy giun từ mắt chim.

3. Phòng bệnh

- Kiểm tra phát hiện chim nhiễm giun để điều trị.

-
Thực hiện vệ sinh phòng bệnh chuồng trại và môi trường sống
của chim.

11. Bệnh cầu trùng

Bệnh
cầu trùng thường thấy ở bồ câu non từ 1 đến 4 tháng tuổi
với các hội chứng ỉa lỏng, phân có nhiều dịch nhày và đôi
khi có màu sô-cô-la do bị xuất huyết.

1.
Nguyên nhân


Bệnh
gây ra do một số bài cầu trùng thuộc giống Eimeria:


-
Eimeria acervulina


-
Eimeria tenella


-
Eimeria preacox


-
Eimeria mivatis...

Những
lài cầu trùng này? cũng là tác nhân gây bện cầu trùng cho gà. Người
ta cho rằng bồ câu bị lây nhiễm mầm bệnh từ gà.

2.
Bệnh lý và lâm sàng


Cầu
trùng ở dạng cảm nhiễm sau khi xâm nhập vào đường tiêu hoá
của bồ câu qua thức ăn nước uống, sẽ phát triển và ký sinh
ở niêm mạc ruột non và ruột già của bồ câu, gây ra ba tác
hại:

-
Chiếm đoạt chất dinh dưỡng làm cho bồ câu gây yếu, giảm tăng
trọng.

- Gây tổn thương niêm mạc ruột, làm tróc nhung mao ruột, dẫn đến viêm
ruột do nhiễm khuẩn thứ phát do E. coli, Salmonella spp và các tạp
khuẩn khác. Các trường hợp bệnh nặng bồ câu sẽ bị viêm
ruột, xuất huyết.

- Độc tố của cầu trùng tiết ra trong quá trình ký sinh cũng tác
động đến quá trình phát triển của bồ câu.

Bồ câu bị bệnh cầu trùng thể hiện các triệu chứng chủ yếu sau:

- ỉa phân lỏng, có nhiều dịch nhày.

- Đôi khi phân có máu do xuất huyết niêm mạc ruột

- Bồ câu bị bệnh nặng có thể chết do ỉa chảy và kiệt sức.

- Phần lớn bệnh cấu trùng ở bồ câu thể hiện các triệu chứng
lâm sàng nhẹ hơn bệnh cầu trùng ở gà con khi cùng nhiễm các loài
cầu trùng tương ứng.

- Bồ câu thường phát triển chậm và gầy yếu.

3. Dịch tễ học

Bệnh cầu trùng thường thấy ở bồ câu non và bồ câu choai. Tuy nhiên
bồ câu trưởng thành cũng thấy mang mầm bệnh và thải mầm
bệnh ra môi trường.

Các loài cầu trùng gây bệnh cho gà cũng đồng thời gây bệnh cho bồ
câu. Các khu vực nuôi chung gà với bồ câu thì thường thấy
bệnh cầu trùng của gà lây sang bồ câu.

Bệnh cầu trùng bồ câu thường thấy ở hai thời điểm trong năm: từ
cuối xuân sang hè và từ mùa thu chuyển sang mùa đông. Tuy nhiên,
bệnh xảy ra quanh năm ở các cơ sở có ô nhiễm mầm bệnh.

4. Chẩn đoán

- Kiểm tra phân tìm noãn nang của cầu trùng.

- Quan sát hình dạng của noãn nang cầu trùng; nuôi cấy noãn nang,
theo dõi các giai đoạn phát triển và mổ khám bồ câu, xác định
vị trí ký sinh của cầu trùng trong hệ thống tiêu hoá để định
loại loài cầu trùng ký sinh.

5. Điều trị

Sử dụng 1 trong các hoá dược đặc hiệu sau đây điều trị bệnh
cầu trùng cho bồ câu:

- Esb3: do hãng CIBA (Thụy Sĩ) sản xuất.

Có dạng kết tinh như đường kính, tan trong nước, dùng như cách sau:

- Điều trị bồ câu bệnh: pha 2 gam thuốc trong 1 lít nước đun sôi
để nguội, cho bồ câu uống liên tục 3-4 ngày liền, cho đến khi
bồ câu hết dấu hiệu lâm sàng.

- Phòng nhiễm cho bồ câu trong các cơ sở có lưu hành bệnh: pha 1
gam thuốc với 1 lít nước đun sôi để nguội, cho bồ câu uống
liên tục 1 ngày liền, sau đó nghỉ, rồi lại cho uống tiếp. Cho
uống 1 tuần như vậy lại nghỉ 01 tuần.

- Grigecoccin: do các hãng thuốc thú y (Richter) của Hungary sản xuất
thuốc dạng bột không tan trong nước nên phải trộn trong thức ăn
cho bồ câu ăn. Liều dùng 2,5gam thuốc trộn với 10 kg thức ăn,
cho bồ câu ăn liên tục 3-4 ngày, tới khi hết triệu chứng lâm sàng.

Phòng
nhiễm cầu trùng thì dùng mỗi tuần 2 ngày thức ăn có trộn
thuốc cho bồ câu.

Ngoài
ra còn một số thuốc trị cầu trùng như: Cocci-stop, Sulfamerazin,
Sulfaquinoxalin, ... có thể dùng cho bồ câu; nhưng phải sử dụng đúng
liều, đúng quy trình như ghi trong nhãn thuốc.

6. Phòng bệnh

- Dùng thuốc phòng nhiễm theo định kỳ tại các cơ sở có lưu hành
bệnh.

- Thực hiện vệ sinh phòng bệnh, có định kỳ sử dụng thuốc tiêu độc
chuồng trại và môi trường nuôi bồ câu.

7Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:22 pm

macsuong

macsuong
,
,

Nuôi chim bồ câu có khó không ?kinh nghiệm nuôi ?

Câu trả lời hay nhất - Do người sử dụng bình chọn


Nuôi
chim bồ câu không khó. Nhưng lúc đầu thì rất khó, vì chim có tính bầy
đàn rát cao, rất hay bỏ đi theo đàn khác. vì vậy lúc đầu bạn nên nuôi
ít nhất là hai đôi. Cho ăn tốt. Đặc biệt là không được để chúng sợ hãi,
giật mình. Không được để mèo, chó đến gần dọa chúng. Tốt nhất ,lúc đầu
bạn nên nuôi trên gác ( nóc nhà ), hoặc chuồng phải cao, mèo không tới
gần được. Ít nhất một tuần nhốt thì mới thả. Lần đầu thả khi trời đã
sắp tối để chim không bay được đi xa. Nếu ở gần khu vực nhà bạn có một
đàn chim khác thì phải nhốt lâu hơn. Lần đầu thả, lúc chúng sắp về
chuồng, không được ai đến gần. Tối đóng cửa chuồng lại, cho ăn uống đầy
đủ, gần tối hôm sau lại thả. Khi chúng đã quen rồi thì rất dễ nuôi. Nếu
bạn cho ăn tốt, không làm chúng sợ hãi thì rất có thể sẽ có nhiều đôi
khác cũng theo về. Chim rất hay tranh tổ của nhau, nên bạn phải đóng
chuồng to, có nhiều ngăn. Nên có một bó rơm để ở gần chuồng để chim rút
về làm tổ. Chim rất ít bệnh, nên đàn phát triển rất nhanh. Lưu ý bệnh
lở mép (con nào bị thì nên thịt luôn); ngoài ra còn có bọ chét rất hay
đốt chim non, do vậy phải vệ sinh chuồng sach sẽ, thường xuyên dùng lọ
thuốc muỗi để xịt quanh chuồng, chúng sẽ bỏ đi. Lưu ý là lúc đầu rất
khó đấy. Nhưng khi đẫ "ấm" đàn rồi thì phát triển nhanh lắm đấy. Chúc
bạn thành công.

8Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:22 pm

macsuong

macsuong
,
,

Kỹ thuật nuôi chim Bồ Câu




Nuôi chim bồ câu lấy thịt giờ đây đã không còn xa lạ với nhiều người.
Chim bồ câu ra ràng thường được dung làm thực phẩm như nấu cháo, hầm
thuốc bắc để tẩm bổ sức khoẻ. Người nuôi chim bồ câu không phải đầu tư
nhiều, nhanh thu hồi vốn nên nó đã trở thành một trong những nghề mang
lại thu nhập cao.




1. Chuồng nuôi
chim bồ câu


Theo
kinh nghiệm, chuồng nuôi chim bồ câu phải thoáng mát thì chim mới mau
lớn. Nếu là nuôi thả tự do thì chuồng nuôi yêu cầu không được trống
trải, có mái che nắng, mưa, có ổ cho chim mái đẻ trứng. Nếu nuôi chim
để sinh sản và khai thác thịt thì cần có chuồng nuôi khác nhau.
Làm
chuồng nên lấy tre chẻ ra thành nan, sau đó làm thành phên ghép lại.
Chuồng nuôi phải có ánh sáng mặt trời, khô ráo, thoáng mát, sạch sẽ,
tránh gió lùa, tránh ồn ào. Nên chia chuồng thành các ô nhỏ cho mỗi cặp
chim: Chiều cao 40cm, chiều sâu 40cm, chiều rộng 50cm. Mỗi ô chuồng cần
2 ổ đẻ trứng và ấp trứng đặt ở trên, 1 ổ nuôi con đặt ở dưới. Phía
trước ô khoét lỗ to bằng miệng bát ăn cơm để chim có thể ra vào. Máng
ăn và máng uống cho chim nên dùng bằng gỗ hoặc chất dẻo, không nên làm
bằng kim loại, đảm bảo vệ sinh
2. Chọn giống
Trong một
ổ chim cần phải có một con trống và một con mái. Muốn chim bố mẹ đẻ
nhiều, nuôi con tốt phải chọn chim có lông bụng dầy mượt, khoẻ mạnh, mỏ
xẻ, không có dị tật, lanh lợi, đuôi nhọn.... Nên mua chim đã được ghép
đôi
Chim bồ câu mái có thể đẻ trải dài trong năm, lứa nọ tiếp lứa
kia, khoảng cách giữa hai lứa khoảng 40 ngày. Như vậy, trong những điều
kiện nuôi thả hợp lý, một cặp bồ câu có thể sản sinh ra 12 đến 14 lứa
chim bồ câu con trong một năm
3. Thức ăn
cho chim bồ câu

Nhu
cầu về dinh dưỡng tùy theo từng giai đoạn phát triển của chim. Thức ăn
cho chim có thể dùng ngô, đậu xanh, thóc... Ngoài ra chim còn có thể tự
tìm kiếm những thức ăn trong tự nhiên nếu không nuôi nhốt.
Nên cho
chim ăn vào giờ đã quy định để tạo thói quen, thông thường 1 ngày cho
chim ăn 2 lần vào 6 giờ sang và 1 giờ chiều. Thức ăn cho chim còn nhỏ
là gạo xay trộn, còn với chim bồ câu đã trưởng thành thì thức ăn là
thóc trộn với ngô (hay các hạt khác) xay vỡ.
Bồ câu nuôi nhốt rất
cần chất khoáng, đặc biệt là muối ăn, do đó phải bổ sung thường xuyên
vào các máng ăn riêng cho chim ăn tự do. Thức ăn khoáng bổ sung được
trộn theo công thức sau: Khoáng Premix 85%, muối ăn 5%, sỏi nhỏ 5%.
Nước
rất cần thiết cho chim bồ câu. Trong các loại chim, chim bồ câu là một
trong những loài tiêu thụ nhiều nước. Một cặp chim tiêu thụ trung bình
200ml nước mỗi ngày, có lúc tăng lên 300ml vào ngày nóng và ít nhất
150ml vào lúc lạnh. Chim bồ câu thường nhúng mỏ vào nước trong suốt
thời gian chúng uống nước. Đặc biệt, chim bồ câu rất thích tắm, nhất là
trong thời gian thay lông, chim non thích tắm quanh năm.
4. Phòng và trị bệnh
cho chim bồ câu

Chim
bồ câu có sức đề kháng với bệnh dịch khá tốt, nhưng nếu nuôi theo đàn
trong một không gian hẹp thì nguy cơ mắc bệnh rất lớn. Muốn cho chim bồ
câu khoẻ mạnh, có sức đề kháng tốt thì trước hết chim phải được nuôi
dưỡng trong môi trường tốt, thức ăn được cung cấp đầy đủ
- Một năm nên tiêm vắc xin phòng bệnh 3 lần cho chim
-
Vệ sinh chuồng trại cho chim bồ câu sạch sẽ. Nên định kỳ 2-3 tháng dọn
dẹp làm vệ sinh chuồng, sửa chữa và làm mới chỗ hư hỏng, cạo sạch phân,
thay ổ đẻ, phun thuốc sát trùng chuồng.
- Vệ sinh máng ăn, máng
uống: Hàng ngày nên rửa máng uống để tránh cho chim uống nước bẩn, đã
lên men do cặn thức ăn đọng lại trong máng
Lồng vận chuyển chim bồ
câu cũng là nguồn lây nhiễm bệnh cho chim, vì ở chuồng có chim bị bệnh
và chết thì dễ dàng lây nhiễm bệnh sang chuồng khác. Vì thế lồng khi
dùng để vận chuyển chim mới cần phải được lau rửa sát trùng cẩn thận.
- Hạn chế cho chim lạ vào chuồng. Tránh để phân chim vương vãi ra mọi nơi. Phòng tránh chuột, mèo, chó... tấn công chim.
-
Một số bệnh thường gặp ở chim bồ câu như: Bệnh kẹt trứng, trứng vỏ mềm,
bệnh cầu trùng, bệnh đậu mùa, bệnh herpes virus đường hô hấp... Cần
phải theo dõi kỹ nếu chim bị mắc các bệnh đó thì nên đến các cơ sở hỗ
trợ chăn nuôi để được tư vấn loại thuốc chữa cho phù hợp.

Thu Quỳnh

9Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:23 pm

macsuong

macsuong
,
,

Để nuôi bồ câu hiệu quả



Chim
bồ câu là vật nuôi có giá trị dinh dưỡng khá cao, rất bổ dưỡng cho
người già, người mới ốm đậy, trẻ em suy dinh dưỡng. Nhưng thực tế rất
ít người nuôi và ít ai nghĩ đây là vật nuôi mang hiệu quả kinh tế cao,
có lãi lớn như anh Nguyễn Văn Ơi ở thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An,
tỉnh Phú Yên.

Đến
thăm nhà, anh vui vẻ cho biết: So với nuôi lợn, gà, vịt thì nuôi chim
bồ câu có lãi cao nhất. Nhưng đòi hỏi phải chịu khó học hỏi kinh
nghiệm. Theo anh có 4 bí quyết để nuôi thành công đó là:


1. Tập làm quen với kẻ thù:
Chim bồ câu sợ nhất là mèo và rắn, nên tập cho chim làm quen với chúng
bằng cách: Cứ mỗi lần cho chim ăn anh kèm theo con mèo bên cạnh. Lần
đầu cho chim thấy mèo, lần sau bắt 2 con lên tay, lần nữa thả mèo cùng
ăn với chim. Dần dần 2 con gần gũi nhau, mèo không vồ chim, chim không
sợ mèo. Bằng cách đó anh dùng con rắn nhựa làm quen với chim, cho rắn
vào chuồng chim. Cứ như thế đàn chim của anh coi mèo, rắn là bạn bè vì
thế mà không bỏ đi nơi khác.


2. Giữ chim ở lại chuồng tránh tình trạng chim bay bỏ chủ mà đi chủ khác: Theo anh để giữ chúng cần tập cho chim quen hơi chủ bằng cách nuôi chim càng non càng tốt.

3. Thường xuyên thăm nom các ổ chim mới nở tạo cho chim không bị sốc về sau, chim trở nên “dạn" gần gũi với chủ hơn.

4. Cho ăn đúng giờ tạo thói quen, dù có đi ăn xa khi đến giờ ăn chim rủ nhau về nhà để ăn thức ăn quen thuộc của chủ.

Ngoài
ra vấn đề thức ăn cho chim bồ câu rất đơn giản, gồm có: Bắp hạt, thóc,
đậu các loại và cám tổng hợp khi chim chuẩn bị vào kỳ đẻ trứng. Bình
quân lượng thức ăn cho 1 con chỉ từ 0,1-0,15g.


Về
khả năng sinh sản, theo anh Ơi muốn chim đẻ đều, tỷ lệ nở cao, con
khỏe, nuôi chóng lớn thì cần cho chim ăn đầy đủ, nhất là cám tổng hợp.
Nếu nuôi tốt 1 con bồ câu mái sau 4 -5 tháng tuổi bắt đầu đẻ lứa đầu,
mỗi lứa đẻ 2 trứng. Sau khi ấp 16 - 18 ngày sẽ nở. Chim con sẽ được
giao cho chim trống nuôi dưỡng. Chim mái nghỉ dưỡng sau 7- 10 ngày thì
đẻ lứa tiếp theo. Cứ như thế 1 cặp bồ câu bố mẹ sau 1 năm cho ra đời 17
cặp con cháu. Đến nay đàn bồ câu gia đình anh Ơi lên tới 500 con. Với
giá cả hiện nay 15.000 - 20.000 đồng/cặp, quả là một con số không nhỏ
chút nào.




Nông nghiệp Việt Nam
(2007-09-27)

10Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:26 pm

macsuong

macsuong
,
,

Một số điểm cần lưu ý khi nuôi chim bồ câu









Cập nhật :
20/08/2009 15:51
























[You must be
registered and logged in to see this image.]

11Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:26 pm

macsuong

macsuong
,
,

Quy trình Kỹ thuật nuôi chim bồ câu
pháp


Giống bồ câu Pháp có ký hiệu là VN1, là giống chuyên
thịt nổi tiếng, mỗi năm một cặp có thể đẻ 8-9 lứa, khối l­ượng chim ra giàng (28
ngày tuổi) đạt 530-580g/con. Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều
kiện khí hậu ở nư­ớc ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.


Chọn giống chim bồ câu


Chim bồ câu đ­ược chọn làm giống phải đảm bảo các yêu
cầu: khỏe mạnh, lông mượt, không có bệnh tật, dị tật, lanh lợi: con trống to
hơn, đầu thô, có phản xạ gù mái (lúc thành thục), khoảng cách giữa 2 x­ơng chậu
hẹp; con mái thư­ờng có khối l­ượng nhỏ hơn, đầu nhỏ và thanh, khoảng cách giữa
2 xương chậu rộng.


Chuồng nuôi và thiết bị nuôi
chim


a. Chuồng nuôi cá thể (dùng nuôi chim sinh sản từ 6
tháng tuổi trở đi)


Mỗi
cặp chim sinh sản cần một ô chuồng riêng. Ô chuồng là một đơn vị sản xuất, trên
đó đ­ược đặt các ổ đẻ, máng ăn, máng uống, máng đựng thức ăn bổ sung và 1 đôi
trống mái sinh sản. Kích th­ước của một ô chuồng: Chiều cao: 40 cm; Chiều sâu:
60 cm; Chiều rộng: 50 cm;


b. Chuồng nuôi quần thể (nuôi chim hậu bị sinh sản từ
2-6 tháng tuổi)


Kích th­ước của 1 gian: Chiều dài: 6m; Chiều rộng: 3,5m;
Chiều cao: 5,5m (cả mái); Máng ăn, máng uống, ổ đẻ, máng đựng thức ăn bổ sung
được thiết kế riêng cho kiểu chuồng này.


Chuồng nuôi dư­ỡng chim thịt (nuôi vỗ béo chim th­ương
phẩm từ 21-30 ngày tuổi) mật độ dày hơn 45-50 con/m2, không có ổ đẻ, không có
máng ăn (chúng ta phải nhồi trực tiếp cho chim ăn), ánh sáng tối
thiểu.



đẻ: khô ráo, sạch sẽ, tiện cho việc vệ sinh thay rửa thư­ờng xuyên. Kích thư­ớc
của ổ: Đ­ường kính: 20-25cm; chiều cao: 7-8cm;


Máng ăn: Kích th­ước máng ăn cho một đôi chim bố mẹ:
Chiều dài: 15cm; Chiều rộng: 5cm; Chiều sâu: 5cm x 10 cm


Máng uống: Có thể vỏ dùng đồ hộp, cốc nhựa...với kích
th­ước dùng cho một đôi chim bố mẹ: Đư­ờng kính: 5-6 cm; chiều cao: 8 -10 cm;


Mật
độ nuôi chim: Nếu nuôi nhốt theo kiểu ô chuồng thì mỗi ô chuồng là một đôi chim
sinh sản. Nếu nuôi thả trong chuồng thì mật độ là 6-8 con/m2 chuồng. Khi đư­ợc
28 ngày tuổi, chim non tách mẹ (giai đoạn về sau này được gọi là chim dò). Nuôi
chim dò với mật độ gấp đôi nuôi chim sinh sản (10-14 con/m2).


Chế
độ chiếu sáng: Chuồng trại phải thiết kế thoáng đảm bảo cung cấp đủ ánh sáng cho
chim. Tuy nhiên ở miền Bắc ban ngày mùa đông ánh sáng ngắn, có thể lắp bóng đèn
40w chiếu sáng thêm vào ban đêm (nếu nuôi theo quy mô lớn) với c­ường độ 4-5w/m2
nền chuồng với thời gian 3-4h ngày.


Dinh dư­ỡng và thức ăn nuôi chim


Các
loại thức ăn thư­ờng sử dụng nuôi chim


Thông th­ường chim ăn trực tiếp các loại hạt thực vật:
đỗ, ngô, thóc, gạo... và một lư­ợng cần thiết thức ăn đã gia công chứa nhiều
chất khoáng và vitamin.


+
Đỗ bao gồm: đỗ xanh, đỗ đen, đỗ t­ơng,...Riêng đỗ t­ương hàm l­ượng chất béo
nhiều nên cho ăn ít hơn và phải đư­ợc rang tr­ước khi cho chim ăn.


+
Thức ăn cơ sở: thóc, ngô, gạo, cao l­ương,..trong đó ngô là thành phần chính của
khẩu phần. Yêu cầu của thức ăn phải đảm bảo sạch, chất lư­ợng tốt, không mốc,
mọt.


Chim bồ câu cần một l­ượng nhất định các hạt sỏi, giúp
cho chim trong quá trình tiêu hoá của dạ dày (mề). Kích cỡ của các hạt: dài
0,5-0,8mm, đư­ờng kính 0,3-0,4mm. Vì vậy nên đ­a sỏi vào máng dành riêng đựng
thức ăn bổ sung cho chim ăn (trộn cùng với muối ăn và khoáng Premix).


Cách phối trộn thức ăn


Thức ăn bổ sung (chứa vào máng ăn riêng): Khoáng Premix:
85%; NaCl: 5%; Sỏi: 10%. Thông thư­ờng lượng hạt đậu đỗ từ 25-30%; ngô và thóc
gạo: 75-75%.

Cách cho ăn


-
Thời gian: 2 lần trong ngày buổi sáng lúc 8-9h, buổi chiều lúc 14-15 h, nên cho
ăn vào một thời gian cố định trong ngày.


-
Định l­ượng: Tuỳ theo từng loại chim mà chúng ta cho ăn với số lư­ợng thức ăn
khác nhau, thông th­ường l­ượng thức ăn= 1/10 trọng l­ượng cơ thể:


-
Chim dò (2-5 tháng tuổi): 40-50g thức ăn/con/ngày:


-
Chim sinh sản: (6 tháng tuổi trở đi)


+
Khi nuôi con: 125-130g thức ăn/đôi/ngày


+Không nuôi con: 90-100g thức ăn/đôi/ngày


-
L­ượng thức ăn/đôi sinh sản/năm: 45-50kg


N­ước uống


Nhu
cầu n­ước uống của chim bồ câu không lớn, nh­ưng cần có đủ n­ước để chim uống tự
do. N­ước phải sạch sẽ, không màu, không mùi và phải thay hằng ngày.



thể bổ sung vào trong nư­ớc Vitamin và kháng sinh để phòng bệnh khi cần thiết,
trung bình mỗi chim bồ câu cần 50-90ml/ngày.


Chăm sóc và nuôi d­ưỡng chim bồ câu


Khi
ghép đôi xong, quen với chuồng và ổ, chim sẽ đẻ. Tr­ước khi chim đẻ, chuẩn bị ổ
(chỉ dùng 1 ổ). Dùng rơm khô, sạch sẽ và dài để lót ổ. ở những lứa đầu tiên chim
thư­ờng có hiện t­ượng làm vãi rơm gây vỡ trứng, do đó nên bện 1 vòng rơm lót
vừa khít đ­ường kính của ổ. Nơi ấp trứng phải yên tĩnh, đặc biệt với chim ấp lần
đầu nên giảm bớt tầm nhìn, âm thanh, ánh sáng để chim chuyên tâm ấp
trứng.


Khi
chim ấp đ­ược 18 -20 ngày sẽ nở, nếu quả trứng nào mổ vỏ lâu mà chim không đạp
vỏ trứng chui ra thì ng­ời nuôi cần trợ giúp bằng cách bóc vỏ trứng để chim non
không chết ngạt trong trứng.


Trong thời kỳ nuôi con (từ khi nở đến 28 ngày tuổi), cần
thay lót ổ th­ường xuyên (2-3 ngày/lần), để tránh sự tích tụ phân trong ổ vì đó
là nơi lý t­ưởng cho ký sinh trùng, vi khuẩn và virus.


Khi
chim non đư­ợc 7-10 ngày mới tiến hành cho ổ đẻ thứ hai vào. Sau khi tách mẹ, ổ
đẻ t­ương ứng đư­ợc bỏ ra rửa sạch, phơi khô để bố trí lứa đẻ tiếp
theo.


Sau
khi đ­ược 28-30 ngày tuổi chúng ta tiến hành tách chim non khỏi mẹ.


Chim dò đ­ược nuôi thả ở chuồng quần thể với lứa tuổi
t­ương đ­ương nhau. Sau khi rời ổ, chim non chuyển sang một giai đoạn mới phải
tự đi lại, tự ăn. Giai đoạn này chim còn yếu, khả năng đề kháng và khả năng tiêu
hoá kém dễ sinh bệnh. Do đó cần chú ý công tác chăm sóc nuôi d­ưỡng. Giai đoạn
này nên bổ sung Vitamin A, B, D, các chất kháng sinh...vào n­ước uống để chống
mềm x­ương, trợ giúp tiêu hoá và chống các bệnh khác. Trong giai đoạn đầu có một
số con chư­a quen cuộc sống tự lập không biết ăn, uống do đó ngư­ời nuôi phải
kiên nhẫn tập cho chim non.


Nuôi vỗ béo chim lấy thịt


Tiến hành tách mẹ lúc 20-21 ngày tuổi (khối l­uượng cơ
thể đạt 350-400g/con) dùng nhồi vỗ béo:Mật độ: 45-50 com/m2 lồng, không để không
gian cho chim hoạt động nhiều, đảm bảo ngoài giờ ăn,uống thì thời gian ngủ là
chính. Thức ăn dùng để nhồi: Ngô: 80%, đậu xanh 20%. Cách nhồi: Thức ăn đ­ược
nghiền nhỏ, viên thành viên nhỏ ngâm cho mềm rồi sấy khô đảm bảo tỷ lệ thức
ăn/n­ước: 1:1


+
Định lư­ợng: 50-80 g/con; + Thời gian: 2-3 lần/ngày; + Phư­ơng pháp : Nhân công:
Dùng tay nhét thức ăn vào miệng chim hoặc máy nhồi như­ vịt.


Khoáng vẫn đư­ợc bổ sung tự do, các loại vitamin, thuốc
bổ khác đư­ợc bổ sung trong nước uống.


Nguồn: Tài liệu tập huấn chăn nuôi Gia cầm Việt Nam,
Trung tâm nghiên cứu Gia cầm Thụy ph­ương – Viện Chăn Nuôi tổ chức tại Vĩnh phú

12Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:27 pm

macsuong

macsuong
,
,

Quy trình Kỹ thuật nuôi chim bồ câu
pháp


Giống bồ câu Pháp có ký hiệu là VN1, là giống chuyên
thịt nổi tiếng, mỗi năm một cặp có thể đẻ 8-9 lứa, khối l­ượng chim ra giàng (28
ngày tuổi) đạt 530-580g/con. Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều
kiện khí hậu ở nư­ớc ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.


Chọn giống chim bồ câu


Chim bồ câu đ­ược chọn làm giống phải đảm bảo các yêu
cầu: khỏe mạnh, lông mượt, không có bệnh tật, dị tật, lanh lợi: con trống to
hơn, đầu thô, có phản xạ gù mái (lúc thành thục), khoảng cách giữa 2 x­ơng chậu
hẹp; con mái thư­ờng có khối l­ượng nhỏ hơn, đầu nhỏ và thanh, khoảng cách giữa
2 xương chậu rộng.


Chuồng nuôi và thiết bị nuôi
chim


a. Chuồng nuôi cá thể (dùng nuôi chim sinh sản từ 6
tháng tuổi trở đi)


Mỗi
cặp chim sinh sản cần một ô chuồng riêng. Ô chuồng là một đơn vị sản xuất, trên
đó đ­ược đặt các ổ đẻ, máng ăn, máng uống, máng đựng thức ăn bổ sung và 1 đôi
trống mái sinh sản. Kích th­ước của một ô chuồng: Chiều cao: 40 cm; Chiều sâu:
60 cm; Chiều rộng: 50 cm;


b. Chuồng nuôi quần thể (nuôi chim hậu bị sinh sản từ
2-6 tháng tuổi)


Kích th­ước của 1 gian: Chiều dài: 6m; Chiều rộng: 3,5m;
Chiều cao: 5,5m (cả mái); Máng ăn, máng uống, ổ đẻ, máng đựng thức ăn bổ sung
được thiết kế riêng cho kiểu chuồng này.


Chuồng nuôi dư­ỡng chim thịt (nuôi vỗ béo chim th­ương
phẩm từ 21-30 ngày tuổi) mật độ dày hơn 45-50 con/m2, không có ổ đẻ, không có
máng ăn (chúng ta phải nhồi trực tiếp cho chim ăn), ánh sáng tối
thiểu.



đẻ: khô ráo, sạch sẽ, tiện cho việc vệ sinh thay rửa thư­ờng xuyên. Kích thư­ớc
của ổ: Đ­ường kính: 20-25cm; chiều cao: 7-8cm;


Máng ăn: Kích th­ước máng ăn cho một đôi chim bố mẹ:
Chiều dài: 15cm; Chiều rộng: 5cm; Chiều sâu: 5cm x 10 cm


Máng uống: Có thể vỏ dùng đồ hộp, cốc nhựa...với kích
th­ước dùng cho một đôi chim bố mẹ: Đư­ờng kính: 5-6 cm; chiều cao: 8 -10 cm;


Mật
độ nuôi chim: Nếu nuôi nhốt theo kiểu ô chuồng thì mỗi ô chuồng là một đôi chim
sinh sản. Nếu nuôi thả trong chuồng thì mật độ là 6-8 con/m2 chuồng. Khi đư­ợc
28 ngày tuổi, chim non tách mẹ (giai đoạn về sau này được gọi là chim dò). Nuôi
chim dò với mật độ gấp đôi nuôi chim sinh sản (10-14 con/m2).


Chế
độ chiếu sáng: Chuồng trại phải thiết kế thoáng đảm bảo cung cấp đủ ánh sáng cho
chim. Tuy nhiên ở miền Bắc ban ngày mùa đông ánh sáng ngắn, có thể lắp bóng đèn
40w chiếu sáng thêm vào ban đêm (nếu nuôi theo quy mô lớn) với c­ường độ 4-5w/m2
nền chuồng với thời gian 3-4h ngày.


Dinh dư­ỡng và thức ăn nuôi chim


Các
loại thức ăn thư­ờng sử dụng nuôi chim


Thông th­ường chim ăn trực tiếp các loại hạt thực vật:
đỗ, ngô, thóc, gạo... và một lư­ợng cần thiết thức ăn đã gia công chứa nhiều
chất khoáng và vitamin.


+
Đỗ bao gồm: đỗ xanh, đỗ đen, đỗ t­ơng,...Riêng đỗ t­ương hàm l­ượng chất béo
nhiều nên cho ăn ít hơn và phải đư­ợc rang tr­ước khi cho chim ăn.


+
Thức ăn cơ sở: thóc, ngô, gạo, cao l­ương,..trong đó ngô là thành phần chính của
khẩu phần. Yêu cầu của thức ăn phải đảm bảo sạch, chất lư­ợng tốt, không mốc,
mọt.


Chim bồ câu cần một l­ượng nhất định các hạt sỏi, giúp
cho chim trong quá trình tiêu hoá của dạ dày (mề). Kích cỡ của các hạt: dài
0,5-0,8mm, đư­ờng kính 0,3-0,4mm. Vì vậy nên đ­a sỏi vào máng dành riêng đựng
thức ăn bổ sung cho chim ăn (trộn cùng với muối ăn và khoáng Premix).


Cách phối trộn thức ăn


Thức ăn bổ sung (chứa vào máng ăn riêng): Khoáng Premix:
85%; NaCl: 5%; Sỏi: 10%. Thông thư­ờng lượng hạt đậu đỗ từ 25-30%; ngô và thóc
gạo: 75-75%.

Cách cho ăn


-
Thời gian: 2 lần trong ngày buổi sáng lúc 8-9h, buổi chiều lúc 14-15 h, nên cho
ăn vào một thời gian cố định trong ngày.


-
Định l­ượng: Tuỳ theo từng loại chim mà chúng ta cho ăn với số lư­ợng thức ăn
khác nhau, thông th­ường l­ượng thức ăn= 1/10 trọng l­ượng cơ thể:


-
Chim dò (2-5 tháng tuổi): 40-50g thức ăn/con/ngày:


-
Chim sinh sản: (6 tháng tuổi trở đi)


+
Khi nuôi con: 125-130g thức ăn/đôi/ngày


+Không nuôi con: 90-100g thức ăn/đôi/ngày


-
L­ượng thức ăn/đôi sinh sản/năm: 45-50kg


N­ước uống


Nhu
cầu n­ước uống của chim bồ câu không lớn, nh­ưng cần có đủ n­ước để chim uống tự
do. N­ước phải sạch sẽ, không màu, không mùi và phải thay hằng ngày.



thể bổ sung vào trong nư­ớc Vitamin và kháng sinh để phòng bệnh khi cần thiết,
trung bình mỗi chim bồ câu cần 50-90ml/ngày.


Chăm sóc và nuôi d­ưỡng chim bồ câu


Khi
ghép đôi xong, quen với chuồng và ổ, chim sẽ đẻ. Tr­ước khi chim đẻ, chuẩn bị ổ
(chỉ dùng 1 ổ). Dùng rơm khô, sạch sẽ và dài để lót ổ. ở những lứa đầu tiên chim
thư­ờng có hiện t­ượng làm vãi rơm gây vỡ trứng, do đó nên bện 1 vòng rơm lót
vừa khít đ­ường kính của ổ. Nơi ấp trứng phải yên tĩnh, đặc biệt với chim ấp lần
đầu nên giảm bớt tầm nhìn, âm thanh, ánh sáng để chim chuyên tâm ấp
trứng.


Khi
chim ấp đ­ược 18 -20 ngày sẽ nở, nếu quả trứng nào mổ vỏ lâu mà chim không đạp
vỏ trứng chui ra thì ng­ời nuôi cần trợ giúp bằng cách bóc vỏ trứng để chim non
không chết ngạt trong trứng.


Trong thời kỳ nuôi con (từ khi nở đến 28 ngày tuổi), cần
thay lót ổ th­ường xuyên (2-3 ngày/lần), để tránh sự tích tụ phân trong ổ vì đó
là nơi lý t­ưởng cho ký sinh trùng, vi khuẩn và virus.


Khi
chim non đư­ợc 7-10 ngày mới tiến hành cho ổ đẻ thứ hai vào. Sau khi tách mẹ, ổ
đẻ t­ương ứng đư­ợc bỏ ra rửa sạch, phơi khô để bố trí lứa đẻ tiếp
theo.


Sau
khi đ­ược 28-30 ngày tuổi chúng ta tiến hành tách chim non khỏi mẹ.


Chim dò đ­ược nuôi thả ở chuồng quần thể với lứa tuổi
t­ương đ­ương nhau. Sau khi rời ổ, chim non chuyển sang một giai đoạn mới phải
tự đi lại, tự ăn. Giai đoạn này chim còn yếu, khả năng đề kháng và khả năng tiêu
hoá kém dễ sinh bệnh. Do đó cần chú ý công tác chăm sóc nuôi d­ưỡng. Giai đoạn
này nên bổ sung Vitamin A, B, D, các chất kháng sinh...vào n­ước uống để chống
mềm x­ương, trợ giúp tiêu hoá và chống các bệnh khác. Trong giai đoạn đầu có một
số con chư­a quen cuộc sống tự lập không biết ăn, uống do đó ngư­ời nuôi phải
kiên nhẫn tập cho chim non.


Nuôi vỗ béo chim lấy thịt


Tiến hành tách mẹ lúc 20-21 ngày tuổi (khối l­uượng cơ
thể đạt 350-400g/con) dùng nhồi vỗ béo:Mật độ: 45-50 com/m2 lồng, không để không
gian cho chim hoạt động nhiều, đảm bảo ngoài giờ ăn,uống thì thời gian ngủ là
chính. Thức ăn dùng để nhồi: Ngô: 80%, đậu xanh 20%. Cách nhồi: Thức ăn đ­ược
nghiền nhỏ, viên thành viên nhỏ ngâm cho mềm rồi sấy khô đảm bảo tỷ lệ thức
ăn/n­ước: 1:1


+
Định lư­ợng: 50-80 g/con; + Thời gian: 2-3 lần/ngày; + Phư­ơng pháp : Nhân công:
Dùng tay nhét thức ăn vào miệng chim hoặc máy nhồi như­ vịt.


Khoáng vẫn đư­ợc bổ sung tự do, các loại vitamin, thuốc
bổ khác đư­ợc bổ sung trong nước uống.


Nguồn: Tài liệu tập huấn chăn nuôi Gia cầm Việt Nam,
Trung tâm nghiên cứu Gia cầm Thụy ph­ương – Viện Chăn Nuôi tổ chức tại Vĩnh phú

13Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:28 pm

macsuong

macsuong
,
,

Một số điểm cần lưu ý khi nuôi chim bồ câu



Chim
bồ câu là giống gia cầm được nuôi dưỡng và thuần hoá khá lâu đời ở nước
ta. Thịt bồ câu ngon và bổ dưỡng vì vậy ngoài mục đích nuôi chim bồ câu
cảnh người ta còn nuôi chim bồ câu theo hướng lấy thịt cho hiệu quả
kinh tế cao.

Hiện nay giống bồ câu cho năng suất cao là giống chim câu Pháp. Kỹ thuật nuôi chim câu Pháp theo hướng lấy thịt như sau:

Chuồng nuôi:

Diện
tích chuồng nuôi chim bố mẹ mỗi ô dài 60 cm, rộng 40 cm và lót 2 ổ cho
chim mái vì đang giai đoạn nuôi con chim mái đã đẻ lứa tiếp theo.


Chuồng
có thể làm bằng gỗ, có nhiều ô, mỗi ô nên nuôi một đôi chim sinh sản,
hoặc có thể tận dụng mái hiên nhà đã được lợp chống nóng ở trên để làm
chuồng nuôi chim. Pphải đảm bảo ấm áp vào mùa đông, thoáng mát vào mùa
hè, chống được chuột mèo vào phá hoại tạo điều kiện thuận lợi cho chim
đẻ, ấp trứng và nuôi con.


Với
vùng núi cao chuồng chim không nên đóng cố định một hướng, mà để trên
trụ xoay hoặc để trên một giá gỗ đỡ có thể xoay chuồng đi các hướng
được. Tuy nhiên cần có dây buộc chặt mỗi khi xoay theo hướng đã vừa ý.
Mục đích xoay chuồng để chống gió lạnh, gió thổi thốc mạnh, mưa tạt.
nếu là mùa đông thì quay cửa chuồng hướng nam hơI chếch đông một chút,
mùa mưa xoay hướng đông bắc để hứng nắng buổi sớm, tối kỵ là quay
chuồng hướng tây.


Chăm sóc:

Khi chim được 20 - 21 ngày tuổi tách mẹ nuôi theo hướng nhồi vỗ béo.

Mật độ nuôi 45 - 50 con/m2.

Thức ăn nhồi: 80% ngô, 20% đậu xanh. Cho chim ăn no 2 bữa vào buổi sáng và tối.

Cần bổ sung thêm lượng khoáng, vitamin và các loại thuốc bổ khác thông qua nước uống hàng ngày.

Trọng lượng chim lúc 28 ngày tuổi (ra giàng) 530 - 580 gam/con. Tỷ lệ sống 94 - 99%.

Chim
bố mẹ có thể sử dụng thóc, ngô, đỗ tương, cơm nguội làm thức ăn. Để
chim không bỏ đi nên định kỳ 3-4 ngày cho chim ăn muối hoặc đường. Có
thể ngâm thức ăn vào trong nước đường hoặc muối nhạt, có thể định kỳ
cho chim ăn đậu tương rang chín.


Để chim khoẻ mạnh sinh trưởng phát triển tốt cần vệ sinh chuồng nuôi sạch sẽ, cứ một tuần dọn chuồng một lần.

Chim
có thể mắc một số bệnh sau: Bệnh đậu, bệnh viêm đường hô hấp, bệnh
thương hàn, bệnh giả lao, bệnh giun đũa, bệnh giun diều, bệnh cầu
trùng, bệnh nấm diều... Khi có chim bị bệnh cần cách ly và điều trị kịp
thời.


Trung tâm khuyến nông Quốc Gia
(2009-08-21)

14Nghề nuôi chim bồ câu Empty Re: Nghề nuôi chim bồ câu 31/8/2009, 1:30 pm

macsuong

macsuong
,
,

Kinh nghiệm nuôi chim bồ câu


Ông Nguyễn Gia Thịnh, ở thôn Cao Thọ, xã Vạn
Ninh (Gia Bình, Bắc Ninh) có 3 người con (hai trai, một gái) hiện đang học các
lớp cuối cấp và ôn thi đại học, mỗi tháng chi phí cho việc học hành của con cái
từ 6 - 7 trăm ngàn đồng. Tuy vậy, rất ít khi ông phải bán thóc để trang trải mà
"nguồn" cung cấp chính là ờ đàn chim bồ câu. Chả thế mà năm 1999, ông nuôi thí
điểm 4 đôi, năm 2002 ông xuất chuồng hơn 300 đôi giá 25.000 - 27.000đ/đôi chim,
trừ các khoản chi phí có lãi hơn 7 triệu đồng. Từ đầu năm 2003, mỗi tháng ông
bán 30 -35 đôi chim giống cho nguồn thu không nhỏ.


Trò chuyện cùng tôi, ông Thịnh vui vẻ cho biết:
Nuôi chim bồ câu dễ chăm, tốn ít công, nhanh cho thu hồi vốn, cho giá trị cao
hơn so với nuôi lợn, nuôi gà, tuy nhiên phải chịu khó học hỏi đúc rút kinh
nghiệm mới có cơ hội thành công. Kinh nghiệm của ông như sau:


Chọn giống bố mẹ: Muốn chim bố mẹ đẻ nhiều,
nuôi con tốt, phải chọn con có lông bụng dày, mỏ xẻ, bởi con có mỏ trơn khi mớm
mồi hay bị trượt, những con mắt treo, đít chim nhọn... có như vậy mới dễ nuôi,
chịu dược hoàn cảnh khắc nghiệt.


Làm chuồng:


Lấy tre, chẻ ra thành nan như nan vạc giường,
sau đó làm thành phên ghép lại tạo thành chuồng, chiều dài của chuồng nuôi tùy
theo diện tích mà ta cần sử dụng, chia đều các ngăn tạo thành ô nhỏ có diện tích
chừng 2m2, đủ để chứa được 1 đôi chim bố mẹ, phía trước khoét lỗ to
bằng miệng bát ăn cơm để chim về trú ngụ. Chuồng nuôi thoáng mát, chim sẽ mau
lớn.


Cho ăn:


Nên cho chim ăn vào giờ đã quy định để tạo thói
quen, thông thường 1 ngày cho chim ăn 2 lần vào 6 giờ sáng và 13 giờ chiều, thức
ăn đối với chim còn nhỏ là gạo xay trộn với 1 - 1,5 lạng vỏ trứng nghiền nhỏ đổ
vào máng để chim ăn (có máng đựng nước uống riêng, mỗi ngày thay nước một lần),
còn với chim bồ câu đã trưởng thành cho ăn ngay tại sân nhà, thức ăn là thóc
trộn với ngô hạt xay vỡ, để thành từng mô, mỗi mô đủ cho 8 - 10 con ăn, mục đích
là tránh chúng tranh mổ lẫn nhau.


Phòng bệnh:


1 năm tiêm vắc xin 3 lần bằng thuốc latosa,
cũng theo ông Thịnh, nuôi chim phải thường xuyên quan sát, khi thấy chim "gụ"
hoặc có hiện tượng tha rác thì làm ổ cho chúng đẻ, ổ đẻ có thể tận dụng những
chiếc hộp nhỏ có nắp đậy để chống chuột tha trứng. Nuôi chim bồ câu nhanh cho
thu hồi vốn bởi 1 cặp chim bố mẹ, trong 1 năm sinh sản được 11 - 12 lứa con
cháu, mỗi lứa 2 con, giá bán: 25.000 - 27.000đ/đôi, trừ các khoản chi phí mua
được hơn tạ thóc. Được biết, thôn Cao Thọ có gần 70 hộ nuôi chim bồ câu, hộ ít 7
- 10 đôi, hộ nhiều như ông Thịnh cũng nuôi tới 70 đôi, từ nguồn nuôi này họ có
nguồn thu nho nhỏ cải thiện và trang trải trong cuộc sống hàng ngày.
Báo
nông nghiệp

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết