MẠC SƯƠNG


Join the forum, it's quick and easy

MẠC SƯƠNG
MẠC SƯƠNG
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
MẠC SƯƠNG

Chuyên Dưa leo Baby Hà Lan, Đ/c ấp 4 Sông Trầu, Trảng Bom, Đồng Nai ĐT 0973764405!

Latest topics

» Dưa Tết Canh Tý 2020----ấp 6, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai
by gacon 15/1/2020, 9:45 am

» tiemview crack
by macsuong 28/5/2018, 2:30 pm

» cà chua bi trồng hữu cơ rất an toàn cho người dùng
by macsuong 28/5/2018, 9:06 am

» Lệnh điều khiển máy từ xa
by macsuong 28/5/2018, 9:05 am

» TRẢNG BOM NƠI TÔI SỐNG
by macsuong 27/4/2018, 1:01 am

» CÀ CHUA SÔ CÔ LA GIỐNG NGA
by macsuong 27/4/2018, 12:26 am

» CÀ CHUA F1 RED GIỐNG NGA
by macsuong 27/4/2018, 12:24 am

» cụ thể là chép vào thư mục này
by macsuong 1/11/2017, 10:55 am

» Đặc Sản quê Hương Xứ Nghệ
by macsuong 8/2/2017, 11:03 am

» Cảnh sát biển Việt Nam theo dõi Hải Dương-981 vào Biển Đông
by macsuong 29/12/2015, 3:52 pm

» File word bị lội "This error message can appear if the document you are
by ngoctram.nhim 19/7/2015, 10:02 pm

» Những câu châm ngôn cuộc sống ý nghĩa
by macsuong 11/11/2014, 11:29 am

» SẢN PHẨM MỚI 10/2014
by bimbip 4/10/2014, 8:17 pm

» Bảng báo giá sản phẩm mỹ nghệ
by macsuong 30/5/2014, 4:31 pm

» Cảm ơn Trung Quốc vì đưa giàn khoan đến thềm lục địa Việt Nam và sau đó...
by macsuong 9/5/2014, 10:16 am

» TẠI SAO TÔI KHÔNG VÀO ĐƯỢC DIỄN ĐÀN?
by gacon 3/12/2013, 9:46 pm

» .....CHÚC MỪNG....
by gacon 3/12/2013, 9:43 pm

» Tạo chương trình khởi động cùng window 7
by macsuong 23/10/2013, 11:01 am

» Nồi cơm khổng tử
by macsuong 26/9/2013, 9:51 pm

» OsMonitor phần mềm giám sát mạng LAN (phần mềm giám sát mạng nội bộ, mạng văn phòng)
by piaorou86 30/3/2013, 11:39 pm


You are not connected. Please login or register

Hình tượng con Rồng trong kinh điển Phật giáo

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

bimbip

bimbip
.
.







[You must be registered and logged in to see this link.]
Rồng Trung Hoa
Rồng là con vật như thế nào? Chưa ai thấy hết, nhưng khắp nơi trên
thế giới rất nhiều người tin tưởng có Rồng và hình dung con Rồng mỗi nơi
mỗi khác. Ở Ấn Độ gọi Rồng là Naga, Trung Hoa gọi là Long, Việt Nam ta
gọi là Rồng. Đó là con vật có hình dạng mình rắn, đầu sư tử, chân cọp.
Tuy là tưởng tượng nhưng nó đã trở thành tín ngưỡng phổ thông, rất được
quần chúng yêu mến, họ vẽ ra nhiều cách và chính trong sách vở thời xưa,
hình dáng con Rồng cũng khá phong phú không kém ngày nay.
Hình tượng Rồng ở Việt Nam.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của
dân tộc Việt Nam là do Lạc Long Quân gặp nàng Âu Cơ ở Động Đình Hồ, sau
đó sinh ra một cái bọc trăm trứng, từ bọc đó nở ra trăm người con. Lạc
Long Quân là cốt Rồng, Âu Cơ là cốt Tiên, khi sinh ra 100 người con như
vậy, Rồng vốn ở nước, Tiên ở núi cho nên mới chia 100 người con ra hai
phần: 50 người đi theo cha xuống biển, 50 người đi theo mẹ lên núi, từ
đó dân tộc ta có nguồn gốc là con Rồng cháu Tiên.
Khi dân tộc ta có nguồn gốc con Rồng cháu Tiên thì chúng ta là dòng
giống Rồng Tiên. Dòng giống Rồng Tiên vốn là dòng giống cao cả, oai
phong, dũng cảm. Rồng Tiên có sức mạnh phi thường và khả năng biến hóa
khôn lường.
Đời Lý có vua Lý Công Uẩn, con nuôi của Thiền sư Lý Khánh Vân, được
sự dạy dỗ giúp đỡ của Thiền sư Vạn Hạnh, là hai vị Thiền sư đầu đời Lý
rất nổi tiếng về đạo hạnh và trí tuệ thông bác hơn người.
Khi ấy gặp lúc vua Lê Ngọa Triều cuối đời
Tiền Lê là một vị hôn quân, sa đọa, hung ác, dân tình oán thán. Vua này
ăn chơi trác táng nên đã sinh bệnh không thể ngồi dậy thiết triều được,
mỗi khi thiết triều chỉ nằm mà thôi, cho nên có danh là Lê Ngọa Triều.
Trước tình hình như vậy, ngài Vạn Hạnh Thiền sư cùng Đào Cam Mộc, một vị
đại thần trong triều sắp đặt đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, lập nên triều
đại nhà Lý trị vì trên 200 năm rất vững chắc.
Khi lên ngôi, vua tự xưng là Lý Thái Tổ. Từ đất Hoa Lư, vua Lý Thái
Tổ nghĩ rằng, đất nước đã độc lập, không thể ở một nơi đất đai chật hẹp,
giao thông không thuận tiện, ngài nghĩ, tại sao trẫm không dời đô về
một chỗ khác cho thuận tiện hơn cho việc triều chính, tiện cho việc đối
nội lẫn đối ngoại. Từ đó vua mới ra chiếu dời đô về đất Hà Nội bây giờ.
Trong khi về đến Hà Nội thấy một con Rồng vàng bay lên, nên vua mới lấy
đó để đặt cho Kinh đô nước ta là Thăng Long. Thăng Long là thủ đô của
nước Việt Nam lúc bấy giờ. (Thăng Long tức là Rồng bay lên). Rồng bay
lên thì cũng có thể hạ xuống, chỗ hạ xuống là ở tỉnh Bắc Ninh, nên mới
có Vịnh Hạ Long, tức là vịnh Rồng hạ xuống
Rồng bay lên từ Hà Nội lấy thủ đô là Thăng Long và hạ xuống ở vịnh Hạ
Long (tỉnh Bắc Ninh). Chỗ này bây giờ là một di tích thiêng liêng và là
kỳ quan thế giới được Liên hiệp quốc công nhận.
Ở miền Nam có một con sông gọi là sông Cửu Long, tức là sông có 9 con
Rồng (tức chín luồng nước hợp lại như chín con Rồng giao nhau), và có
bến Nhà Rồng ở thành phố Hồ Chí Minh. Như thế là Việt Nam chúng ta từ vị
khai tổ ở Bắc, nguồn gốc đầu tiên theo truyền thuyết là Lạc Long Quân
và nàng Âu Cơ, đến khi Lý Thái Tổ lên ngôi vua và hạ chiếu dời đô về Hà
Nội, đặt tên là Thăng Long, rồi có vịnh Hạ Long ở Bắc Ninh là nơi Rồng
hạ xuống, tất cả đều có dính dáng đến Rồng.
Như vậy nước Việt Nam chúng ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau đầu,
đuôi và giữa đều có Rồng. Theo địa lý thì miền Bắc là đầu Rồng, ở giữa
cố đô Huế cũng có bệ Rồng (triều nhà Nguyễn) là mình, và vào trong Nam
là chân Rồng, đâu đâu cũng có Rồng hết. Mà Rồng là một linh vật nhanh
nhẹn, thông minh, biến hóa khôn lường, đó là một hình tượng rất được dân
chúng ưa chuộng. Việt Nam chúng ta là con Rồng cháu Tiên thì chúng ta
phải bảo vệ, xây dựng và giữ gìn nó như thế nào để xứng đáng là con Rồng
cháu Tiên.
Ý nghĩa hình Rồng trong kinh điển Phật giáo
Bây giờ tôi nói Rồng có liên quan đến kinh điển Phật giáo. Trong kinh sách Phật có 3 lần Rồng xuất hiện.
Lần thứ nhất là lúc Đức Phật Giáng sinh thì có 9 con Rồng phun nước
tắm cho Phật, gọi là Cửu Long phún thủy (Chín con Rồng phun nước để tắm
cho Phật). Đó là một tích sử rất xa xưa, bây giờ ở miền Trung ít thấy,
còn miền Nam thì nhiều. Các chùa miền Nam khi họ khắc hoặc chạm trổ
tượng, bao giờ cũng có tượng Đản sinh, xung quanh có 9 con Rồng đứng
hầu, là lấy tích sử Đức Phật ra đời có 9 con Rồng phun nước tắm cho
Phật. Đó là Rồng xuất hiện trong kinh sách Phật giáo lần thứ nhất.
Lần thứ hai là trên đường Đức Phật đi giáo hóa sau khi Ngài Thành
đạo. Sau ngày Thành đạo, Ngài đến Lộc Uyển thuyết pháp độ cho 5 vị Tỳ
kheo Kiều Trần Như xong, Ngài liền nghĩ đến hạng căn cơ nào tiếp theo có
thể tiếp nhận được giáo lý của Ngài? Ngài quán biết tại xứ Ấn Độ lúc
bấy giờ có 3 anh em ông Ca-diếp gọi là Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da
Ca-diếp và Na-đề Ca-diếp, rất nổi tiếng là hàng ngoại đạo rất được kính
trọng mà ở đấy họ đang thờ Thần lửa. Ngài muốn hóa độ cho 3 anh em
Ca-diếp bằng cách: Hôm ấy Ngài đi qua chỗ cư trú của ông Ca-diếp anh,
thì trời tối nên xin vào ở trọ và ngủ lại. Ông anh Ưu-lâu-tần-loa
Ca-diếp thấy Ngài hình dung phương phi rạng rỡ, nét mặt thanh thoát, tự
tại, giải thoát, ông liền hỏi Ngài: Đạo nhơn có mạnh khỏe không mà xem
người vui vẻ như thế? Ngài mới trả lời rằng: “Vô bệnh đệ nhất lợi, thiểu
dục tri túc đệ nhất phú, thành tín đệ nhất thân, Niết-bàn đệ nhất lạc”
(không bệnh là lợi nhất, biết đủ là giàu nhất, thành tín là thân nhất,
Niết-bàn là vui nhất). Vì Phật giáo có những cái nhất như thế nên Phật
tử chúng ta khi học hỏi giáo lý của Ngài, đã thâm nhập giáo lý ấy thì
cũng rất tự tại và an vui.
Ngài nói xong rồi và hỏi: Ông có bằng lòng cho tôi trọ lại một đêm
không? Ông ta trả lời: Cho Đạo nhơn trọ lại tôi không tiếc gì; nhưng
tiếc rằng bây giờ đây Tăng chúng đồ đệ của tôi đông quá, không có chỗ để
cho Ngài tạm trú, duy chỉ còn một chỗ ở nơi đền thờ Thần Lửa ở bên góc
kia, Ngài có thể tạm trú ở đó có được không? Ngài nói, chỗ nào cũng
được, ông chỉ cho tôi trọ lại một đêm thì tôi cám ơn vô cùng. Khi đó ông
Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nói rằng: Tuy tôi nói là nói vậy, nhưng trong
đền thờ Thần Lửa đó nguy hiểm lắm, tôi sợ tánh mạng của Ngài bất an,
không toàn vẹn được, vì trong đó có con Hỏa Long (Rồng Lửa), hễ người
nào vào đó lạ hơi thì nó sẽ phun khói, phun lửa ắt sẽ bị tiêu hết, không
cách gì tránh được. Ngài nói cám ơn và xin ông chớ lo. Ông vui lòng
chấp nhận cho tôi ở là tốt lắm rồi.
Đến khi Đức Phật vào ở trong đền thờ Thần Lửa đó, con Rồng Lửa ngửi
thấy mùi hơi lạ, nó từ trong động trườn ra phun khói. Khi khói phun tới
chỗ Ngài, nhưng lạ thay, khói đó dội ngược trở lại nơi chính nó. Nó lại
phun lửa, lửa chưa tới Ngài mà dội ngược lại nơi nó. Khi đó con Rồng Lửa
mất hết cả thần thông, không làm sao hại Ngài được, nên nó gô mình lại
(cuộn tròn) nằm cong núp vào một góc để tránh khói lửa do nó phun ra.
Thấy vậy, động lòng từ bi, Đức Phật liền đưa bình bát ra và con Rồng Lửa
bay vào đó để lánh nạn, nên trong kinh có chữ hàng Long phục Hổ (hàng
phục Rồng và hàng phục Cọp). Vì sao Ngài hàng phục được các loài hung dữ
như vậy? Vì Ngài lấy đức từ bi, lấy lửa tam-muội để hàng phục các loài
hung dữ ấy.
Lại nói ông Ca-diếp anh, khi thấy lửa trong đền nổi lên, thầy trò ông
liền hối nhau múc nước để dội vào trong đền. Thầy trò ông càng dội
nước, thì lửa càng bùng lên dữ dội, không cách nào dập tắt được. Ông lấy
làm lo lắng cho tính mạng của Ngài và đâm ra hối hận vì đã để Ngài ngủ
trong đó.
Bất thình lình, Đức Phật ung dung ôm bình bát từ trong đền thờ Thần
Lửa bước ra, thầy trò ông Tần-loa Ca-diếp vô cùng ngạc nhiên, kính phục
và bước lại hỏi Ngài. Thưa Đạo nhơn, lâu nay không có ai dám đối địch
với con Rồng Lửa hung dữ này cả, nay sao Đạo nhơn hàng phục nó một cách
dễ dàng như vậy? Khi gặp Đức Phật ông ta trầm trồ ngợi khen Đức Phật,
nhưng trước mặt đồ chúng đệ tử của ông, ông lại nói: Tuy Đạo nhơn ấy có
thần thông như vậy nhưng chưa bằng ta.
Khi đệ tử vào trong động để đốt lửa thì lửa không cháy. Ông
Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nghĩ chắc đây là ông Đạo nhơn làm cho lửa không
cháy, chứ không ai vào đây hết, liền quay qua hỏi Đức Phật có đúng
không? Đức Phật trả lời: Phải, chính Ta làm. Phật hỏi lại. Vậy các ngươi
có muốn đốt lửa lên không? Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp thưa: Dạ, ưng lắm. Vì
chúng tôi đang thờ Thần Lửa nên chúng tôi phải đốt lửa cho cháy mãi
mãi, không được để cho lửa tắt. Ngài bảo họ tới đốt thì lập tức lửa bừng
cháy và cháy mãi, cháy cao, không tài nào làm cho ngọn lửa nhỏ lại
được. Ông Ca-diếp anh nói, chắc là vị Đạo nhơn này làm rồi chứ không con
ai lẫn vào đây nữa! Ông liền hỏi Ngài có phải Ngài làm không? Đức Phật
trả lời: Phải. Phật hỏi lại, thế các ngươi có muốn tắt lửa không? Ông
mừng quá nói: Dạ muốn. Phật lấy tay chỉ vào thì lửa tắt. Đến khi hết củi
để đốt, đồ đệ đem búa ra bửa thì búa mới nhấc lên trời thì không tài
nào hạ xuống được. Ông Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nói: Chắc ông Đạo nhơn này
làm chứ không ai khác? Ông liền hỏi Phật, có phải Đạo nhơn làm không?
Phật nói: Phải. Vậy các ngươi có muốn hạ búa xuống không? Ông nói: Dạ
muốn. Thế là Phật chỉ tay một cái thì búa liền hạ xuống.
Tuy thấy thần lực của Đức Phật như vậy, nhưng ông Ưu-lâu-tần-loa
Ca-diếp tự ái nghĩ rằng, xưa nay mình lãnh đạo một số đồ công chúng đông
đảo và tự cho mình đã đắc thần thông, giờ đây phép thần thông của ông
Đạo nhơn này quá vượt trội mình. Tuy vậy, trước mặt đệ tử ông, ông vẫn
luôn miệng nói: Mặc dầu vậy nhưng vẫn chưa bằng ta. Ta đã chứng quả
A-la-hán rồi, chứ ông Đạo nhơn này chưa chứng quả A-la-hán. Đức Phật với
tâm mình biết tâm của người khác liền nói: Này ông bạn tốt, ông nói như
vậy là không đúng sự thật, ông chưa chứng được A-la-hán. Vì nếu ông đã
chứng quả A-la-hán rồi thì không còn tâm hơn thua so sánh. Giờ ông còn
cái tâm niệm ngã nhơn hơn thua đó chưa hết, ông chưa phải là người đã
chứng quả A-la-hán.
Khi đó Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp mới kính phục Đức Phật và nói: Thưa Đạo
nhơn, tôi biết cái đạo của Ngài cao hơn cái đạo của tôi, và cho tôi xin
làm đệ tử với Ngài. Đức Phật liền chấp nhận. Thế là ông Ưu-lâu-tần-loa
Ca-diếp anh trở thành đệ tử của Đức Phật cùng với 500 đồ chúng đệ tử của
ông. Khi đã làm đệ tử của Phật rồi thì bao nhiêu khí cụ thờ Lửa ông sai
đem liệng xuống sông Hằng.
Hai người em cũng tu theo đạo thờ Thần Lửa như anh mình ở khúc dưới
sông Hằng, thấy đồ thờ Thần Lửa của anh mình sao trôi bồng bềnh trên
sông như vậy, họ đoán chắc anh mình có tai nạn gì xảy ra rồi đây. Hai
người em liền đi ngược dòng sông để tìm hiểu thực hư ra sao, thì gặp anh
mình và đồ chúng đi theo sau Đức Phật. Họ lấy làm lạ vô cùng vì nghĩ
anh mình là người có uy tín, tu theo đạo Thờ Lửa là đạo cao thượng, tại
sao giờ lại đi theo sau ông Đạo nhơn lạ lùng thế này? Họ liền hỏi anh
thì được người anh kể lại cho nghe hết mọi chuyện về Đức Phật. Khi ấy
hai người em thấy đạo lực anh mình cao cường như vậy mà cũng thua Phật,
liền bàn bạc với nhau và cuối cùng, họ xin đi theo Phật luôn cùng với đồ
chúng mỗi người 125 vị. Cộng có 250 đệ tử của hai anh em cũng theo Ngài
tu luôn. Như vậy cả ba anh em cộng lại là 750 người đi theo Phật, 500
còn lại là đệ tử của Ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cùng các vị đệ tử
khác, nên trong kinh thường nói: Thiên nhị bách ngũ thập nhơn câu (1250
Tỳ kheo đông đủ trong hội thuyết pháp) của Phật. Như vậy là Rồng xuất
hiện lần thứ hai trong kinh Phật.
Bây giờ Rồng xuất hiện lần thứ ba.
Các Phật tử đã tụng Kinh lâu ngày rồi có nhớ ở phẩm nào không? Chính
nó xuất hiện ở phẩm Đề-bà-đạt-đa. Trong phẩm Đề-bà, Đức Phật phúc chúc
cho các vị đệ tử thuyết pháp và các vị Bồ-tát phát nguyện đem Kinh Pháp
Hoa đi giáo hóa. Ngài Văn Thù cũng phát nguyện trước Đức Phật là sẽ đem
Kinh Pháp Hoa đi giáo hóa các nơi.
Có một hôm, trong hội chúng Đức Phật nói rằng: Các đệ tử của Ta đem
Kinh đi giáo hóa khắp nơi, Văn-thù-sư-lợi cũng đem Kinh đi giáo hóa ở
Long Cung là chỗ vua Rồng ở, Văn Thù sẽ đến đây ngay hôm nay. Vừa nói
xong thì Bồ-tát Văn Thù từ biển xuất hiện. Trí Tích Bồ-tát hỏi Ngài Văn
Thù: Mấy lâu nay Ngài đi giáo hóa dưới Long Cung có được nhiều người
theo không? Văn Thù trả lời: Thưa Đại sĩ, dạ đông lắm, không kể xiết.
Trí Tích Bồ-tát hỏi Ngài Văn Thù rằng: Ngài dạy cho đệ tử pháp môn gì mà
người ta theo đông như vậy? Ngài nói: Tôi dạy Kinh Pháp Hoa. Trí Tích
Bồ-tát nói: Kinh Pháp Hoa là bộ Kinh thâm diệu, trong khi Ngài giáo hóa
như vậy có thấy ai có căn cơ lanh lợi, ngộ hiểu được pháp tu hành thành
Phật mau chóng không? Ngài Văn Thù nói: Có. Người ấy là ai? Dạ đó là
Long Nữ (là con của Rồng).
Long Nữ mới 8 tuổi mà đã có căn trí rất lanh lợi, tu hành có thể
thành Phật đạo một cách mau chóng. Nói vừa xong thì Long Nữ hiện lên.
Khi Long Nữ hiện lên thì Ngài Xá-lợi-phất nghi, Ngài nghĩ rằng: Thân
người nữ có 5 sự chướng như Đức Phật đã nói: Một là, thân người nữ không
được làm Ma vương; hai là không thể làm được vua Trời Phạm Thiên; ba là
không thể làm vua Trời Đế Thích; bốn là, không được làm Chuyển Luân
Thánh Vương; năm là, không được làm Phật. Thân người nữ có 5 điều chướng
ngại như vậy, nhưng ở đây Long Nữ đã là người nữ, mà lại là thân Rồng,
thuộc loài súc sinh, thì làm sao mà nói thành Phật mau chóng được? Ngài
Xá-lợi-phất nghi lắm. Biết Xá-lợi-phất nghi như vậy nên Long Nữ liền nói
rằng: Thưa Tôn-giả Xá-lợi-phất kính mến, giả sử tôi đem chuỗi ngọc này
cúng dâng lên Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn liền nhận xâu chuỗi ngọc đó, thời
gian đó có mau không? Ngài Xá-lợi-phất trả lời: Rất mau. Long Nữ thưa
lại rằng, tôi nay thành Phật cũng mau chóng như thế. Vừa nói xong thì
chuyển thân Long Nữ biến thành nam nhân và thành Phật ngay trước hội
chúng.
Ở đây chắc các Phật tử cũng nghe nói thân người nữ có 5 điều chướng
đó nên không thể làm Ma vương (Chúa tể loài Ma), không thể làm được Phạm
thiên vương (làm chúa tể cõi thế gian), không thể làm được Trời Đế
Thích (tức là vị trời làm chủ cõi trời 33), không được làm vua Chuyển
Luân Thánh Vương (tức là một ông vua đem Chánh pháp cai trị muôn dân).
Ông vua đó mỗi lần ra đời thì có bảy thứ báu xuất hiện theo ông, trong
các thứ báu đó có một thứ xe báu, khi nào muốn đi thì chiếc xe ấy hiện
đến và ông cỡi lên xe ấy để chu du thị sát khắp bốn châu thiên hạ, để
quan sát dân tình mà cai trị. Xe ấy đi khắp đông, tây, nam, bắc chỉ
trong một canh giờ mà thôi là về chỗ cũ; và thứ năm là, không được làm
Phật. Chuyển Luân Thánh Vương là ông vua Thế gian, Đế Thích là ông vua
cõi trời Tam thập tam ở Dục giới. Còn Phật là ông vua pháp (Pháp vương).
Thân người nữ có trở ngại là không làm được năm chức vị đó cho nên gọi
là ngũ chướng. Nói như vậy có khác nào nói rằng, trong Phật Pháp không
có sự bình đẳng, trong Phật Pháp cho người nữ thấp hơn người nam hay
sao? Nếu nói người nữ thấp hơn người nam thì tại sao có chỗ Phật dạy
rằng: “Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật”. Đã có tánh Phật thì bất luận
nam nữ đều có thể thành Phật. Cho đến với loài súc sinh nếu có tánh tự
giác, đều có Phật tánh thì trước sau đều có thể thành Phật được hết.
Tại sao nói thân người nữ có 5 chướng nên không làm được 5 chức vị đó? Chúng ta biết rằng trong nhà Phật, chữ chướng có 3 thứ:
- Phiền não chướng.
- Nghiệp chướng.
- Báo chướng.
Khi tụng kinh lễ Phật, chúng ta đều có nguyện: Nguyện tiêu tam chướng
trừ phiền não. Phiền não chướng tức là tham, sân, si, tật đố, kiêu mạn,
ích kỷ, ganh tỵ…Tất cả những tật xấu đó gọi chung là phiền não. Những
thứ phiền não nầy làm cho tâm người ta bất an, bị sầu muộn, bị dằn vặt,
buồn bực, lo lắng như lửa đốt, nên gọi là phiền não. Chúng ta muốn tu
nhưng vì các thứ đó nó ngăn ngại nên không tu được. Muốn giải thoát
nhưng bị 5 thứ đó làm cho chướng ngại nên không giải thoát được. Muốn
được an vui thì bị các phiền não đó làm ta buồn bực không vui được.
Tự chúng ta chiêm nghiệm suy nghĩ về chúng ta cũng đủ hiểu. Tôi lấy
một ví dụ: Hằng ngày chúng ta đi tụng kinh rất siêng năng, nhưng hôm đó
có người rao lên rằng: Nếu ai đó đến với tôi đúng 6 giờ sáng tôi sẽ biếu
cho một thỏi vàng. Chắc chắn khi ấy lòng tham nổi dậy nên cũng có người
bỏ tụng kinh, thế là chướng rõ ràng, vì sao? Vì nó ngăn trở con đường
tu giải thoát của mình, đó gọi là phiền não chướng. Mình biết rằng sân
si là một điều không tốt, là một điều tai hại (nhất niệm sân tâm khởi,
bát vạn chướng môn khai, nghĩa là một khi khởi một niệm sân si thì muôn
điều chướng ngại nổi lên). Mặc dầu biết như vậy, nhưng khi một ai nói
một tiếng về mình mà mình không bằng lòng, thì mình sẽ nổi sân liền,
không làm sao mà tu được. Đang đi tụng kinh, giữa đường mà gặp một người
nào đó không quen, quẹt vào làm cho mình bị rách áo thì liền quay trở
lại sừng sộ cãi lộn với họ đã, chứ còn tụng kinh thì thôi để mai, mốt
tụng cũng được. Đó tức là phiền não chướng, vì nó làm chướng ngại con
đường giải thoát, con đường tu tập, làm chướng ngại sự tìm đến cảnh an
vui thanh tịnh của mọi người.
Thứ hai là nghiệp chướng, tức là cái nghiệp làm chướng ngại con đường
tu tập của mình. Tôi thí dụ: Sáng nay đi tụng kinh Pháp Hoa ở chùa Từ
Đàm, nhưng khi đạp xe qua chợ Bến Ngự thấy có quán cà phê mùi thơm bốc
ra hấp dẫn, thèm quá mình không cưỡng lại được, thôi thì phá lệ ghé qua
uống một cốc đã. Cái nghiệp uống cà phê nó lôi đi theo nghiệp uống cà
phê, nghiệp ham mê bóng đá nó lôi đi theo nghiệp bóng đá, nghiệp ưa đánh
lộn nó lôi theo nghiệp ưa đánh lộn. Bao nhiêu cái nghiệp đó ở nơi chúng
sanh hoặc nhiều hoặc ít đều có hết. Nếu nghiệp đó mình không thắng nổi
hắn, phải đi theo hắn thì đời đời chìm đắm theo nó, chứ không tiến lên
con đường giải thoát, giác ngộ được, nên gọi là nghiệp chướng.
Thứ ba là báo chướng. Báo chướng nghĩa là sinh ra đã gặp quả báo. Có
người ưa đi tụng kinh quá mà sao bữa nay trong người không khỏe, bị đau
bụng, mai đau chân, mốt nhức đầu, không sao đi tụng kinh được. Họ cũng
biết giáo pháp của Đức Phật dạy quí báu vô cùng, muốn đi nghe quá nhưng
bữa nay hai tai nó ù, không nghe được. Nghe người ta diễn tả rằng: Tượng
Đức Phật rất trang nghiêm, thanh thoát, tự tại, an lạc, họ muốn thấy
tượng Đức Phật, muốn chiêm ngưỡng tượng Đức Phật nhưng vì hai con mắt bị
mù không thấy được nên gọi là báo chướng.
Vậy khi nói thân người nữ bị năm chướng không làm được 5 chức vị đó
là thuộc về loại chướng nào? Nó thuộc về báo chướng chứ không phải
nghiệp chướng, cũng không phải phiền não chướng. Bởi thân ta có khi
không luận nam hay nữ, khi đã dứt hết phiền não chướng rồi thì không còn
phiền não nữa. Trong hiện thân dứt hết phiền não, dứt hết nghiệp chướng
rồi thì không còn phiền não và không còn nghiệp chướng nữa, nhưng cái
thân báo chướng nơi mình khi sinh ra đã mang cái thân đó. Trong khi mang
nó thì thân đàn ông khác, thân đàn bà khác. Thân nam giới có nhiều tự
tại hơn, trái lại, thân nữ giới có nhiều cái triền phược hơn, vì bị
nhiều triền phược nên cũng bị nhiều ngăn ngại: Do vậy người nữ không
được làm Đế Thích, không được làm Ma vương, không được làm Chuyển Luân
Thánh Vương, không được làm Phạm Thiên Vương, và không được làm Phật, vì
đó là báo chướng chứ không phải nghiệp chướng, không phải phiền não
chướng. Bởi vì phiền não chướng cũng y như nam giới, nghiệp chướng cũng y
như nam giới không khác gì hết, nhưng vì dư báo trong hiện tại làm
chướng ngại, nên không thể làm chủ năm chức vị đó mà thôi. Năm chướng
này là năm chướng thuộc về báo chướng chứ không phải phiền não hay
nghiệp chướng gì hết. Báo chướng là cái dư báo do mình tạo nghiệp đời
trước, nên ngày hôm nay phải chịu báo thân như vậy, cho nên có những vị
đắc đạo trong hiện thân, Đức Phật cũng thành đạo trong khi hiện thân chứ
không phải Ngài thành đạo lúc nhắm mắt, thế nhưng cái dư báo của sắc
thân đó, Ngài cũng phải chịu. Ví như đau ốm, rét lạnh, nhức đầu sổ
mũi…là thuộc về báo chướng.
Các vị A la hán cũng vậy, trong hiện tại chứng quả A la hán thì chính
các vị đó đã dứt hết phiền não chướng, nghiệp chướng nhưng cũng còn mắc
báo chướng nên phải chịu sự triền phược của cái nghiệp báo đó. Như
trong kinh có nêu câu chuyện: Có một vị đã chứng A la hán rồi nhưng khi
đi khất thực không có ai cúng dường.
Đó là ngài Losaka, vì lẽ trong kiếp trứơc bà mẹ của Ngài rất mộ đạo,
hay cúng dường bố thí cho các bậc tu hành, trái lại, ngài thì hay ghét
mấy vị đi khất thực. Thấy ngài đâu là ngài ối đổ nấy, vì vậy nên không
có ai dám đến nhà của ngài để khất thực, mặc dầu pháp khất thực của các
nhà sư thì không phân biệt nhà nào hết, nhà nào cũng phải đi ngang qua
cả. Nhưng bữa đó, có một vị Bích Chi Phật đến khất thực nơi nhà của
ngài, khi ấy ngài không có ở nhà. Bà mẹ đem cúng dường Bích Chi Phật
những thực phẩm tốt nhất. Khi vị Bích Chi Phật vừa đi ra khỏi thì gặp
Losaka trở về, thấy vậy liền tra hỏi vị Bích Chi Phật rằng: Ông vào xin
trong nhà tôi có gì không? Ngài trả lời: Có. Ông biểu ngài đưa bình bát
cho ông coi và thấy trong bình bát có thức ăn. Ông giành lấy bình bát
của ngài và đổ xuống đất và lấy chân chà cho nát. Vì tạo nghiệp không
tốt đối với vị Bích Chi Phật nên kiếp sau, ngài bị luân hồi và sanh vào
trong nhà người chài lưới ở miền biển rất nghèo. Làng này lâu nay làm ăn
cũng khá, bữa được bữa mất nhưng không bao giờ đói. Nhưng từ khi sanh
ngài ra thì nhà ấy và làng buôn luôn luôn bị mất mùa, đói kém. Họ bèn
điều tra xem xét và được biết kể từ khi ngài có mặt thì làm thiệt hại cả
làng, nhưng chưa ai dám nói ra.
Một hôm để xác minh có phải ngài là người làm cho cả làng bị thiệt
hại như vậy không, họ bèn chia làng ấy ra làm hai thôn: Thôn trên và
thôn dưới. Thôn không có ngài Losaka ở thì làm ăn phát đạt, trái lại,
thôn có ngài Losaka sinh và đang ở đó thì luôn luôn mất mùa, đói kém.
Khi đã biết chính ngài là người làm cho cả thôn bị đói kém, họ liền đuổi
hai mẹ con ngài đi. Cả hai mẹ con dắt nhau đi xin, nhưng tới đâu cũng
không ai cho gì hết. Khi bà mẹ để ngài ở nhà đi xin một mình thì họ cho
rất nhiều, còn nếu mang ngài đi theo thì không ai cho cả. Bà mẹ cảm thấy
chán nản và định bỏ rơi con. May thay một hôm gặp ngài Xá-lợi-phất,
ngài nhìn thấy Losaka mặc dầu mắc quả báo như vậy, nhưng có căn chủng
rất tốt nên ngài nhận đem về nuôi dạy. Ngài dạy cho Losaka học và tu
hành, sau đó không bao lâu thì chứng quả A la hán. Mặc dầu chứng quả A
la hán nhưng đến khi đi khất thực, khất đâu cũng không được. Buổi sáng
ngài đi khất thực thì các thí chủ chưa mở cửa. Ngài đợi gần trưa đi khất
thực thì người ta đã cúng dường cho mấy vị trước rồi, đến khi ngài đi
tới thì hết thức ăn. Khi ngài đi chặng giữa cũng có người cúng, nhưng
khi ngồi ăn thì quạ xuống giành mất, cứ như vậy nên ngài phải chịu đói
luôn. Thấy vậy ngài Xá-lợi-phất liền đi khất thực đem về cho ngài ăn.
Khi đưa cơm cho ngài Losaka ăn, ngài vừa bưng bình bát lên thì cơm liền
biến mất. Ngài Xá-lợi-phất phải tự bưng bình bát để Losaka ăn. Ngài tuy
chứng A la hán nhưng vẫn bị quả báo như vậy. Sự việc của ngài Losaka mà
tôi vừa kể trên là bị báo chướng chứ không phải bị nghiệp chướng lại
càng không phải bị phiền não chướng.
Trong kinh Pháp Hoa nơi Phẩm Đề-bà mà ngài Xá-lợi-phất nghi Long nữ
không thể thành Phật được, vì thân người nữ có 5 chướng ngại nên không
thể thành Phật được, là thuộc về báo chướng chứ không phải nghiệp hoặc
phiền não chướng. Qua đó chúng ta mới thấy tính cách bình đẳng của Phật,
Ngài nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như nhau, không có gì sai
khác”.
Hôm nay nhân chuyện năm Rồng, tôi kể chuyện Rồng như vậy để các Phật
tử rõ và chúng ta cũng nên biết rằng, học Phật phải biết nghiệp chướng
là gì, phiền não chướng là gì, báo chướng là gì, để chúng ta sách tấn tu
tập, hầu dứt trừ ba thứ chướng đó để được tự tại an vui và giải thoát.

Thích Thiện Siêu

[You must be registered and logged in to see this link.]

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết