MẠC SƯƠNG


Join the forum, it's quick and easy

MẠC SƯƠNG
MẠC SƯƠNG
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
MẠC SƯƠNG

Chuyên Dưa leo Baby Hà Lan, Đ/c ấp 4 Sông Trầu, Trảng Bom, Đồng Nai ĐT 0973764405!

Latest topics

» Dưa Tết Canh Tý 2020----ấp 6, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai
by gacon 15/1/2020, 9:45 am

» tiemview crack
by macsuong 28/5/2018, 2:30 pm

» cà chua bi trồng hữu cơ rất an toàn cho người dùng
by macsuong 28/5/2018, 9:06 am

» Lệnh điều khiển máy từ xa
by macsuong 28/5/2018, 9:05 am

» TRẢNG BOM NƠI TÔI SỐNG
by macsuong 27/4/2018, 1:01 am

» CÀ CHUA SÔ CÔ LA GIỐNG NGA
by macsuong 27/4/2018, 12:26 am

» CÀ CHUA F1 RED GIỐNG NGA
by macsuong 27/4/2018, 12:24 am

» cụ thể là chép vào thư mục này
by macsuong 1/11/2017, 10:55 am

» Đặc Sản quê Hương Xứ Nghệ
by macsuong 8/2/2017, 11:03 am

» Cảnh sát biển Việt Nam theo dõi Hải Dương-981 vào Biển Đông
by macsuong 29/12/2015, 3:52 pm

» File word bị lội "This error message can appear if the document you are
by ngoctram.nhim 19/7/2015, 10:02 pm

» Những câu châm ngôn cuộc sống ý nghĩa
by macsuong 11/11/2014, 11:29 am

» SẢN PHẨM MỚI 10/2014
by bimbip 4/10/2014, 8:17 pm

» Bảng báo giá sản phẩm mỹ nghệ
by macsuong 30/5/2014, 4:31 pm

» Cảm ơn Trung Quốc vì đưa giàn khoan đến thềm lục địa Việt Nam và sau đó...
by macsuong 9/5/2014, 10:16 am

» TẠI SAO TÔI KHÔNG VÀO ĐƯỢC DIỄN ĐÀN?
by gacon 3/12/2013, 9:46 pm

» .....CHÚC MỪNG....
by gacon 3/12/2013, 9:43 pm

» Tạo chương trình khởi động cùng window 7
by macsuong 23/10/2013, 11:01 am

» Nồi cơm khổng tử
by macsuong 26/9/2013, 9:51 pm

» OsMonitor phần mềm giám sát mạng LAN (phần mềm giám sát mạng nội bộ, mạng văn phòng)
by piaorou86 30/3/2013, 11:39 pm


You are not connected. Please login or register

Lăng Ba Vành có phải là lăng mộ Vua Quang Trung?

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

macsuong

macsuong
,
,

Lăng Ba Vành có phải là lăng
mộ Vua Quang Trung?

Giadinh.net - Cái chết của vua Quang Trung vốn đã chứa đựng quá
nhiều điều bí mật, không những thế, tháng 11 năm 1801, vua Gia Long lại
cho phá huỷ nơi chôn cất ông và san thành bình địa. Hơn 200 năm qua, vị
trí lăng mộ Quang Trung chính xác ở nơi nào vẫn là dấu hỏi lớn?

Và đã có quá nhiều giả thuyết gây nên
những cuộc tranh cãi đến mức căng thẳng. Chúng tôi đã có cuộc hành
hương về thành Phú Xuân (Huế) xưa, và ghi chép được rất nhiều điều lạ...
Không rõ rằng, chuyện tìm mộ Quang Trung Hoàng đế và mộ Thành Cát Tư
Hãn, câu chuyện nào chứa đựng nhiều bí ẩn hơn?

Mộ thiêng trong hoang phế

Người đầu tiên tung “quả bom tấn” ra dư
luận về vấn đề lăng mộ Quang Trung là ông giáo Trần Viết Điền - Giảng
viên môn Vật Lý trường ĐH Sư phạm Huế. Trước những tranh cãi cho rằng,
lăng Ba Vành là lăng Đức ý hầu Lê Quang Đại, một vị quan dưới triều chúa
Nguyễn Phúc Khoát đã chết vào đầu năm 1746, bằng phương pháp vật lý,
ông Điền đưa ra 5 luận cứ nhằm vén bức màn bí mật và lật lại hoàn toàn
vấn đề, khẳng định lăng Ba Vành chính là lăng mộ Quang Trung.

Lăng Ba Vành đổ nát
Phế tích lăng Ba Vành

Lăng Ba Vành nằm ở ngọn đồi Thiên An,
phía Tây thành phố Huế. Một người chăn bò ở gần đấy thấy chúng tôi lụp
xụp áo mưa tìm lên lăng thì lắc đầu nửa tin nửa ngờ. Theo như ông biết,
cách đây hàng vài chục năm đã có nhiều người đến đây đào bới nghiên cứu.
Nhưng đấy là chuyện của thời ông mới lấy vợ. Còn giờ đây, khi con ông
đã sắp lập gia đình, cái lăng mộ cổ này vẫn vậy và càng ngày, nó càng bị
trâu bò ngứa sừng đào bới cho tung toé. Ông vạch cây, rẽ lối chỉ đường
cho chúng tôi mò đến tận lăng.

Theo
ý ông Điền, lăng Ba Vành chính là lăng mộ Vua Quang Trung. Thế nhưng
tại sao những người đời sau lại cho rằng đấy là lăng của Đức ý hầu Lê
Quang Đại? Tìm tòi ròng rã nhiều năm, ông Điền phát hiện ra rằng đã có
nhiều người tìm cách biến nơi này thành... một ngôi mộ giả!

Phế tích lăng Ba Vành nằm giữa rừng thông bạt
ngàn và chằng chịt bởi những lùm bụi mâm xôi. Cây rựa trong tay người
chăn bò tốt bụng khua lên loang loáng. Một khoảng tường thành xây dựng
bằng các phiến đá to chồng lên nhau thấp thoáng hiện ra sau đám cỏ cây
rậm rạp. Những viên gạch sứt mẻ, nhưng với “người trần mắt thịt” như
chúng tôi vẫn có thể hình dung ra đấy là một bức tường đã từng được xây
rất kiên cố. Vừa phạt quang bụi rậm, người đàn ông có đôi bàn tay vàng
khè của một người tứ mùa làm ruộng kể: Cách đây gần 20 năm, khu vực này
còn có cả khỉ. Đường lên lăng gồ ghề, xóc nẩy. Thi thoảng có việc lên
núi lấy củi, ông thấy một số viên đá to, dài cả sải tay bị đổ cạnh lăng
đã bị cỏ mọc trùm lên. Ngoài ra, còn có một số bức phù điêu có khắc chữ
đã mòn trắng bị trẻ chăn bò đập phá rồi ném cách lăng đến 5m. Một thời
gian sau, có nhiều nhà khoa học đến đây. Họ phát quang cây cối cả một
vùng, rồi đào bới nhặt nhạnh từng mảnh vỡ về ghép lại để nghiên cứu và
mở ra nhiều chi tiết lạ kỳ của một ngôi lăng tưởng như đã chìm trong
hoang phế.

Tôi nhớ lại lời của ông Trần Viết Điền
trước khi mình khăn gói lên tận Thiên An xem lăng: “Ba Vành trước đây là
lăng của một vị quan dưới triều chúa Nguyễn Phúc Khoát tên là Lê Quang
Đại đã chết vào đầu năm 1746. Sau đó, vua Gia Long cho san thành bình
địa tất cả các địa điểm có liên quan đến vua Quang Trung. Lăng Ba Vành
hoang phế từ đấy. Vì bị cỏ cây che lấp nên ai cũng tưởng ngôi lăng có
qui mô vừa. Chúng tôi đã phát lộ và dùng thước đo đạc mới thấy qui mô
của lăng, dẫu đã bị quật phá nặng vẫn có quy mô rất hoành tráng”.

Ngôi lăng độc nhất vô nhị

Điều đầu tiên đập vào mắt sau khi đoàn
nghiên cứu của thầy trò Trần Viết Điền phát lộ cây cối là nhìn toàn
cảnh, lăng Ba Vành có hình elip với các trục lớn 60m, trục nhỏ 40m. Quy
mô của một ngôi lăng như thế này là quá hoành tráng, chưa kể tân nguyệt
trì (hồ trăng non) bên cạnh. Lăng gồm 3 uynh thành ghép lại. Uynh ngoài
hình móng ngựa, kết thúc bằng hai trụ cửa khá lớn. Uynh thứ hai có hình
cong ngược với 4 phù điêu có hình voi đắp nổi. Uynh trong cùng là hình
tượng hai con cù dậy, ôm nấm mộ xây có hình mai rùa, còn đầu rùa như
ngậm cái bia thẻ. Các uynh thành có một trục đối xứng hình học và trục
này theo hướng Tây Nam
– Đông Bắc, nghiêng Bắc góc 60o. Còn đường thần
đạo của lăng, vuông góc với trục đối xứng vừa nêu, tọa hướng càn (Đông
Nam- Tây Bắc, nghiêng Bắc 30o). Đây mới là hướng chính của ngôi lăng.
Trục nhỏ này là trục đối xứng của nhà bia có đế chữ thập, từng có bia
thờ, đã bị ai đó băm nát, cắt đầu bia, gọt tai bia...

Nghiên cứu sâu thêm, ông Điền hốt hoảng
nhận ra giữa uynh thành 2 và uynh thành 3 có một hầm hình hộp, nhận
đường thần đạo làm trục đối xứng và hiện nay nắp hầm còn ở bờ tân nguyệt
trì trước lăng. Nắp này là một phiến đá lớn được gọt đẽo mà thành. Theo
các nhà khoa học, hầm này có khả năng chứa các đồ thờ và chủ yếu là các
vật tùy thân của chủ nhân ngôi lăng. Khảo sát miệng hố, đục cái nấm xây
và đoán hướng huyệt của ngôi mộ, ông nhận thấy về phương pháp vật lý và
dịch lý Đông phương, thi thể của chủ nhân ngôi lăng nằm theo hướng thần
đạo, đầu tọa tốn, chân hướng càn, bên trái chủ nhân là 3 cung liền, và
bên phải chủ nhân là 3 cung đứt (đó là 3 cửa vào lăng). Người thiết kế
lăng đã xử lý rất tuyệt diệu về phong thủy và dịch lý Đông phương. Theo
đường thần đạo mà tính, 3 uynh thành tạo thành quẻ càn kép (bát thuận
càn), theo hướng vuông góc với đường thần đạo mà tính thì đạt quẻ thái
(quẻ khôn ghép với quẻ càn). Đây là lý do ngôi lăng này có đến 3 uynh
thành đăng đối hình học và cả đăng đối dịch lý. Các lăng mộ ở Huế, trừ
lăng các vua, không tìm thấy ngôi lăng thứ hai nào như vậy.

Những hoa văn kỳ lạ

Điều mà ông Điền khám phá ra là hai con
cù dậy tìm thấy trong mộ là tiền thân của con rồng bởi chúng có cái sừng
đắp nổi, hoàn toàn khác với giống cù như một số tài liệu trước đó đã
có. Mô tip trang trí này cũng thuộc loại độc nhất vô nhị ở Huế. 4 phù
điêu đắp nổi 4 con voi ở uynh thành thứ 2 đều được xác định không phải
hình tượng voi chầu, cúp vòi phủ phục như vẫn thấy ở lăng mộ vua chúa
triều Nguyễn, triều Lê. Voi ở lăng Ba Vành uốn vòi lên trên, cặp ngà
cũng chĩa lên và đặc biệt trên đầu voi cũng... mọc sừng.

Toàn bộ công trình kiến trúc lăng mộ được
thiết kế nhất quán theo thuật phong thuỷ và dịch lý phương Đông. Hoa
văn, sừng voi, ngà voi, sừng cá sấu, mí mắt cá sấu, các dải hồi văn luôn
có một vạch liền nét (chỉ dương) và thành phần thứ hai là hai vạch đứt
xếp lại, nhỏ hơn, khép nép, e ấp (chỉ âm). Đây cũng là một lối trang trí
độc đáo nữa, chứng tỏ người thiết kế rất uyên thâm dịch lý và rất yêu
kính chủ nhân ngôi lăng.

Theo khám phá ban đầu của ông Điền, tân
nguyệt trì bên phải ba uynh thành có chữ nguyệt, bửu thành có chữ nhật.
Nhật nguyệt nghĩa là Minh, ý chỉ người nằm trong lăng là bậc minh quân:
“Nghiên cứu các lăng tẩm của các vua và mẹ vua ở Huế, chúng tôi nhận
thấy một qui luật là chỉ có nhà vua từng lên ngôi và hoàng thái hậu (mẹ
vua) khi mất, xây lăng mộ mới có Tân nguyệt trì, cha của vua mà không
làm vua thì trước lăng không được xây Tân nguyệt trì. Lăng Gia Long,
lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức, lăng Dục Đức, lăng Đồng
Khánh, lăng Thành Thái, lăng Khải Định và lăng mẹ của các vị vua này đều
có Tân nguyệt trì và đương nhiên có nhà bia thánh đức thần công, với đế
chữ thập. Như vậy, lăng Ba Vành có đủ các cấu kiện độc đáo: nhà bia có
bệ chữ thập, trước bửu thành có Tân nguyệt trì mà chỉ có bậc đế vương
mới được xây dựng trang trí như thế, bởi một ông quan thời phong kiến,
dù có tiền nhiều cũng không dám xây lăng như thế này vì dễ mang tội khi
quân”.

Mười năm nghiên cứu một... loại gạch
Để chứng minh lăng Ba Vành là lăng vua
Quang Trung một cách khoa học và thuyết phục, ông Điền đã dốc toàn lực
trong 10 năm chỉ nghiên cứu một loại gạch phát hiện được trong lăng mộ
này. Và để chứng minh đây là loại gạch của Tây Sơn sản xuất và sử dụng
trong các công trình kiến trúc văn hóa, ông Điền đã phải sưu tầm các
loại gạch được sản xuất và sử dụng từ thế kỷ 14 đến nay trên đất Thuận
Hóa.




[You must be registered and logged in to see this link.]
Ông Điền và viên gạch Tây Sơn được tìm thấy ở lăng Ba Vành
Nơi đầu
tiên ông khăn gói quả mướp đến tìm hiểu là đàn Viên Khâu của thời đại
Tây Sơn ở Núi Bân. ở đàn Viên Khâu còn một số mảnh gạch thẻ nung non,
dày 2cm, rộng 12cm, dài 14cm. Sau đó nhóm ông đã kiểm chứng kết quả ở
những công trình kiến trúc mà Tây Sơn có tôn tạo, dựng thêm... Không
ngại gian khổ, ông đã đến Khải Thánh Từ (nơi mà sau này trở thành Văn
miếu của triều Tây Sơn) đã từng có mở thêm học cung, nghĩa là có xây
dựng bằng gạch Tây Sơn. Thật thú vị và bất ngờ lớn nhất là ở đây còn rất
nhiều loại gạch đã phát hiện ở Núi Bân. Ông lại tiếp tục lên chùa Thiền
Lâm, nơi Thái sư Bùi Đắc Tuyên trưng dụng làm dinh thự của Thái sư và
đã phát hiện rất nhiều loại gạch Tây Sơn như vậy... Ông lại khăn gói về
tận Bãi Dâu, đến miếu Ông Mọi, nơi từng thờ một vị chỉ huy người Ba Na
tử trận năm Bính Ngọ 1786, rồi lên chùa Linh Mụ... thật lạ, tất cả những
nơi này đều có rất nhiều gạch của Tây sơn. Để khẳng định chắc chắn thời
Tây Sơn có một loại gạch riêng, ông đã tiến hành kiểm chứng loại gạch
này ở các công trình thuần thời Nguyễn như lăng các bà vợ của chúa
Nguyễn... thì không phát hiện loại gạch nào như vậy.

Ông Điền đã quay lại khảo sát cả vùng đồi
Thiên An và tìm thấy trong lăng Ba Vành và xung quanh còn rất nhiều
gạch Tây Sơn cùng loại. Như vậy, theo ông Điền, lăng Ba Vành là công
trình kiến trúc do Tây Sơn xây dựng.



Được sửa bởi Người Điều Hành ngày 5/4/2011, 9:33 am; sửa lần 2.

macsuong

macsuong
,
,

Đi tìm mộ vua Quang Trung: Lăng Ba Vành có phải là lăng mộ
Vua Quang Trung? (2)




Giadinh.net - Nếu trước đây, các nhà sử học cho rằng Lăng Ba
Vành là của Đức ý hầu Lê Quang Đại thì càng khám phá lăng, ông Trần Viết Điền
càng bàng hoàng nhận thấy nhiều chứng cứ giả đã được tạo ra trên các tấm bia bị
quẳng lăn lóc ở quanh lăng. Việc làm có chủ đích của một người nào đó chăng?



Mộ thật, mộ giả





Lăng Ba Vành có phải là lăng mộ Vua Quang Trung? (1)
Khởi nguồn chuyến hành trình đi tìm lăng mộ của ông giáo Điền được bắt
đầu cách đây 20 năm. Đó là cuộc gặp gỡ với cụ Nguyễn Hữu Đính (nguyên Chủ tịch
UBMTTQ TP Huế), người đã dựa vào các dữ kiện lịch sử, quan niệm phong thủy và
quan niệm chọn sính phần của vua chúa Việt Nam để rồi nhận: Lăng Ba Vành chỉ có
thể là lăng Quang Trung được triều Tây Sơn ngụy trang để phòng nguy cơ Nguyễn
Ánh chiếm Phú Xuân rồi tàn phá. Tuy nhiên, nghiên cứu của ông Đính trước đó đã
không có nhiều sức thuyết phục. Đến lượt mình, ông Điền quyết định tìm lăng mộ
Quang Trung cùng hướng với cụ Đính nhưng theo cách riêng của mình.



Đã hơn 20 năm ông Điền dầm dãi
nắng mưa để thu thập hồ sơ về lăng mộ Quang Trung. Nhiều mồ hôi và cả
nước mắt đã rơi trên từng phiến gạch mà ông đã tìm kiếm, nhưng điều đó
không làm cho ông mất hết niềm tin và hi vọng về con đường mà mình đeo
đuổi: "Tôi không còn nhớ mình đã tốn bao nhiêu công sức và vốn liếng để
thực hiện nghiên cứu này mà kể. Khoảng những năm 1987, đồng lương giáo
viên của hai vợ chồng làm gì đã đủ nuôi con. Ban đầu tôi nhờ bạn bè giúp
đỡ, sau nhờ nhà tôi. Của nả trong nhà cứ thế cắp nón ra đi đến như khánh
kiệt. Lương giáo viên còm cõi, vậy mà nhiều lần tôi phải dối vợ và giữ
lại nửa lương để dành cho sưu tầm thư tịch, tổ chức khảo sát thực địa,
giám sát cổ vật...”


Khi được hỏi sau tất cả những
thay đổi của cuộc đời mà phần lớn có liên quan đến việc tìm kiếm lăng mộ
Quang Trung, ông có ân hận? Ông cười, tôi chỉ có thể buồn bởi dường như
sự quan tâm cho đề tài của tôi từ phía các cơ quan chức năng vẫn chưa
nhiều. Về phía mình, một khi đã chọn lựa, tôi khẳng định mình không hề
ân hận.
Thông tin đầu tiên ông đưa ra khiến giới nghiên cứu Huế choáng váng: Ông
khẳng định lăng Ba Vành không phải lăng của ý Đức hầu Lê Quang Đại, một vị quan
dưới triều chúa Nguyễn Phúc Khoát và chết vào đầu năm 1746, như công bố trước
đây. Chứng cứ đầu tiên mà ông đưa ra là bài viết đăng trên báo Đại Chúng vào năm
1974. Trong bài viết đó, khi trả lời về sự tích lăng Ba Vành cho một vị linh mục
người Pháp, một chức sắc làng Cư Chánh (nơi lăng Ba Vành ngự trị) cho biết, đó
là ngôi mộ xưa, nguyên đắp ba lớp thành, thường xưng là Ba Vành, bỏ phế đã lâu,
chỉ lưu lại tòa bia đá bị phá hủy. Đặc biệt, trong giấy tờ để lại vào năm 1901,
lý trưởng làng lúc đó có tên Nguyễn Bút đã đồng ý cho Cơ mật viện có tên là Bá
Khương đem thân nhân hình như là người cha chôn vào lăng ấy. Còn tại tờ phúc bẩm
của Bộ Lễ thì Bá Khương khai rằng, mộ ở Lăng Ba Vành là của Hộ Bộ kiêm Binh Bộ
Lê Quý Công (tức Lê Quang Đại). Như vậy nếu nói rằng lăng Ba Vành chỉ là lăng
của ông Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại thì quá đáng ngờ.

Vậy mộ thật của Lê Quang Đại ở đâu?
Ông Điền đã tìm đến họ Lê, một dòng họ thuộc hàng danh gia vọng tộc ở Huế và
phát hiện ra một chi tiết quan trọng: Họ Lê của làng Xuân Hòa (gần chùa Thiên
Mụ) có ông tổ từng giữ chức Hộ Bộ (thượng thư) kiêm Binh Bộ. Rà soát Đại Nam
Thực Lục Tiền Biên, chỉ có 4 vị từng giữ chức Hộ Bộ kiêm Binh Bộ thời chúa
Nguyễn, đó là các ông Trần Đình Hy, Nguyễn Thừa Tự, Lê Quang Đại và Hoàng Ngọc
Uẩn .

Ông Điền cho biết: “Tôi lại tiếp cận
gia phả họ Nguyễn ở làng An Hòa, có Nguyễn Cư Trinh là rể
của ông Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại. Vợ Nguyễn Cư Trinh là bà Lê Thị Màn, có
tên trong gia phả gốc của họ Lê Xuân Hòa. Ông Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại là
chủ nhân ngôi mộ nằm trong khuôn viên miếu Khai canh của làng Xuân Hòa. Vậy tại
sao người ta lại làm hồ sơ để ông nghiễm nhiên nằm ở lăng Ba Vành”? Bằng các lập
luận và bằng chứng, ông Điền khẳng định Toà khâm sứ Pháp xứ Trung kì đã từng làm
hồ sơ giả để hợp thức hoá chủ nhân lăng Ba Vành là của ông Lê Quang Đại. Theo
ông Điền, tại Hội nghị về Quang Trung được Hội lịch sử Thừa Thiên Huế tổ chức
trước đây, nhiều nhà khoa học đã công nhận lăng Ba Vành chưa có chủ nhân. Nghĩa
là Ông Lê Quang Đại phải trở về Miếu khai canh ở làng Xuân Hòa và nhường lăng Ba
Vành lại cho các nhà nghiên cứu.

Ai đang nằm trong lăng?

Ông Điền thuật lại, trong hai cái bia
mình tìm được vào năm 1986 (gồm một cái cao lớn, kiểu bia thẻ và một cái bia
hình chữ nhật nhỏ hơn) thì cả hai tấm bia đều đã bị đục nát chữ. Có người đã lấy
xi măng trát vào mặt bia và khắc thêm các dòng chữ mới một cách vụng về để nguỵ
trang. Có thể thấy, nhóm làm hồ sơ giả cho chủ nhân ngôi mộ trước đó và nhóm
thao tác trên bia là một. Còn về thông tin người nằm dưới mộ là Bá Khương, ông
Điền lý giải: Trong khi mộ của thân phụ của ông Bá Khương là ông Bá Bình đã được
gia táng ở gần Đàn Nam Giao thời triều Nguyễn. Thế thì ông Võ Bà Khương đã đưa
ai vào chôn tại lăng Ba Vành?



5 luận chứng khoa học
về lăng mộ vua Quang Trung của Trần Viết Điền:


Lăng Ba Vành không phải của
Hộ bộ thượng thư Lê Quang Đại, thời Nguyễn Phúc Khoát.

Toà Khâm Sứ Pháp xứ Trung kì
từng làm hồ sơ giả để hợp thức hoá chủ nhân Lăng Ba Vành là Lê Quang
Đại.

Các kiểu thức, mô típ trang
trí, quy mô của Lăng Ba Vành hội đủ điều kiện của một lăng mộ vua.

Vật liệu xây dựng hoàn toàn
giống ở Giao đàn, Văn Miếu và một số công trình thời Tây Sơn.

Gia Long không san thành bình
địa lăng để lấy bằng chứng tố cáo với nhà Mãn Thanh tội khi quân của
triều Tây Sơn.
Ông Điền cho biết, sau năm 1975, GS Phan Huy Lê đã dùng búa gỡ lớp xi
măng nói trên dòng chữ “Cảnh Hưng Thất Niên Tứ Nguyệt...”. GS tạm kết luận Lăng
Ba Vành là lăng của Lê Quang Đại, không phải lăng của hoàng đế Quang Trung. Tuy
nhiên, theo ông Điền trong những dòng chữ này có nhiều điều đáng ngờ. Thứ nhất
văn khắc thì hay nhưng tai bia và đế bia đều đã bị gọt và phá đến mức quá cẩu
thả. “Với góc nhìn phong thủy và đăng đối dịch lý, chúng tôi tin rằng bia này
nguyên thủy là bia thờ, đại diện cho linh hồn chủ nhân ngôi mộ, và nó đăng đối
trên đường thần đạo của lăng. Sau này bia bị phá nát, chỉ còn lại như một tảng
đá và bị ai đó khắc chồng lên 4 chữ “Sơn nhạc chung linh” nhằm mục đích làm sai
ý đồ thiết kế của ngôi lăng”.

Điều kì lạ là trên vết hỏng những chữ
đã bị đục, người ta tiếp tục dùng đục khắc vào vị trí chữ thứ 2 mà theo ông
Điền, có thể là chữ NGUYÊN đã bị đục thành chữ THẤT. Chữ THẤT này nét đá quá cao
như chữ thảo, trong khi bia được khắc theo lối chữ chân. “Chúng tôi đã đo độ sâu
những nét chữ giống nhau thì thấy quá lệch nhau; chứng tỏ người ta đã sửa bia
sao cho phù hợp với năm mất của ông Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại”.

Ông Điền cùng các học trò đã tỉ mỉ
cạo lớp rêu bám vào mặt bia thì thấy ở phía trên, góc trái có khắc một chữ “LA”
(ý nói bắt được) và góc phải có khắc dòng chữ “NHÂM TUẤT MẠNH ĐÔNG”. Đầu bia
phía này, lai đục hình một lưỡi mác nhỏ, rất sắc sảo, biểu tượng chủ nhân ngôi
mộ bị trảm quyết.

Bên dưới lại có dòng chữ được khắc
vụng về: “TỰ TÔN VÕ BÁ ĐẠM PHỤNG LẬP”. Dòng này mới khắc thêm vào với ý đồ lái
niên đại “Nhâm Tuất mạnh đông” nói trên sang một năm khác. Những năm NHÂM TUẤT
trong lịch sử gồm: 1742, 1802, 1862, 1922, 1982. Dễ dàng loại năm 1742, 1862,
1982 vì không đúng thời điểm. Chỉ còn hai năm 1802 và 1922. Nếu ông Bá Khương
lập bia, chí ít phải lập từ 1901 đến 1906, nhưng giai đoạn này không có năm Nhâm
Tuất. Như vậy, có thể ai đó đã đưa người cháu Võ Bá Đạm vào, đóng vai trò lập
bia cho ông nội với những dòng khắc vụng về trên lớp vữa mới được đắp lên mặt
bia. Với cách xử lý này, việc ông Võ Bá Đạm lập bia vào năm 1922 là quá hợp lý.
“Không may cho kẻ gian, chúng tôi rà soát trong gia phả của dòng họ Bá Khương, ở
làng La Ỷ không có ông Bá Đạm dựng bia một cách “vô lễ” và “tồi tệ” với ông nội
của mình đến như thế. Vậy hai người cháu LÊ XUÂN, Võ Bá Đạm chỉ là hai nhân vật
“hư cấu” của bộ hồ sơ giả mà thôi”.

Như vậy, theo nghiên cứu của ông Điền,
chủ nhân Lăng Ba Vành chính là Vua Quang Trung nhưng đã có một bàn tay tạo
“chứng cứ” giả để “hạ giá” ngôi lăng thành mộ của một vị quan.



Kết cục bi thảm của triều Tây
Sơn


Theo sử sách để lại, tháng
bảy năm Nhâm Tý (1792), sau một thời gian hôn mê sâu, triều đình Phú
Xuân đã tìm hết cách chạy chữa, nhưng rồi Vua Quang Trung cũng băng hà ở
tuổi 39.

Tháng Năm năm Tân Dậu (1801),
quân Tây Sơn bị vỡ trận và quân của Nguyễn Vương nhanh chóng cắt đường,
đánh thẳng vào kinh thành Phú Xuân, đúng vào dịp Tết Đoan Ngọ. Nguyễn
Quang Toản, người vừa nối ngôi quá bất ngờ, cùng đoàn tùy tùng chạy ra
Bắc.

Nguyễn Vương sau khi trở lại
cựu đô đã trả thù Quang Trung bằng cách ra lệnh cho một toán binh tượng
lên ngay Đan Dương lăng và lăng bà Tả cung họ Phạm để quật phá, sau đó
đưa quan tài của hai vợ chồng vua Quang Trung về thành Phú Xuân. Nguyễn
Vương ra lệnh bổ quan tài ra, mang thi thể của vua Quang Trung và bà Tả
cung họ phạm ra để trị tội. Do Tây Sơn có kỹ thuật ướp xác, nên hai thi
thể của hai vợ chồng còn nguyên vẹn, Nguyễn Vương ra lệnh đem hai thi
thể treo cổ ở Chợ Được, gần cầu Gia Hội hiện nay, nhằm thị uy và đe nẹt
những người còn luyến nhớ Tây Sơn. Sau vài ngày, hai thi thể được đặt
trở lại quan tài và được quân lính mang theo đoàn quân Bắc tiến để tiêu
diệt Quang Toản.

Do mộ của vợ chồng Quang
Trung đã bị quật, thi thể lại bị mang theo đoàn quân để phô trương thanh
thế, quân Tây Sơn đã ngã lòng. Nhiều tướng tá thời Tây Sơn trở giáo theo
Nguyễn Vương. Khi tướng sĩ Tây Sơn về hàng, ai vẫn được giữ chức ấy và
cứ thế theo đoàn quân ra thẳng Thăng Long.

Trong thế chẻ tre, vua Gia
Long lại vào Thăng Long, còn Nguyễn Quang Toản cùng với Lê Thị Ngọc Bình
trên một con voi, chạy trốn trong rừng huyện Phương Nhãn. Do có người
mách bảo, Vua Gia Long đã lệnh cho một tay có biệt tài “rống to” để dọa
voi. Gã này vào rừng Phượng Nhãn rống to, con voi chở Nguyễn Quang Toản
và Lê Thị Ngọc Bình quỵ xuống và quân của vua Gia Long đã bắt sống hai
người. Vua Gia Long đã “ tận pháp trừng trị” vua quan Tây Sơn
trước “Từ đường các chúa Nguyễn”. Nguyễn Quang Toản bị hành hình
theo phép phanh thây. Còn toàn bộ xương cốt của tử tội được cho vào giỏ
mây, lệnh quân lính phóng uế vào,sau đó giã nát, nhồi vào súng, bắn
xuống sông. Riêng ba cái sọ của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang
Toản được cho vào ba cái vò, dán bùa yểm, treo lên ở nhà giam trong Vũ
Khố, về sau đưa vào khám đường ở Tây Lộc.

macsuong

macsuong
,
,



Đi tìm mộ Vua Quang Trung: Cung điện Đan Dương và những bí mật chưa từng khám phá (3)





Giadinh.net - Cùng với nghiên cứu lăng mộ Vua Quang Trung của ông
Trần Viết Điền, tại khu vực gò đồi Bình An, gần Chùa Thiền Lâm, Nhà
nghiên cứu Huế Nguyễn Đắc Xuân cũng đã khai quật ra nhiều bí ẩn chưa
từng được công bố.

Một
đường huyền đạo chạy xuyên dưới nền nhà, nhiều gạch đá lạ có hoa văn
đẹp và một số phiến đá như những tấm bao quanh quách quan tài. Những phát lộ này phần nào vén bức màn bí mật về một Phủ Dương Xuân tráng lệ và dưới đó có an táng Vua Quang Trung.



Chuyện truyền kỳ về tìm mộ Vua Quang Trung
Khám phá của ông Xuân đã được nhiều nhà sử học xem là đúng đắn và các di
vật được công nhận là có giá trị lớn, xác thực. Tuy nhiên, một số ý
kiến nghiên cứu cho rằng, không phải Phủ này đã bị Gia Long quật phá mà
nó đã được ai đó chủ động di dời cải táng.

Bí ẩn quanh chốn Thiền Lâm

Chùa
Thiền Lâm được khai sơn vào cuối thế kỷ 17, trên gò đồi Bình An thuộc
làng Bình An - Huế. Tương truyền, đây là nơi dành cho gia đình các chúa
tụng niệm mỗi lần họ lên trú đông tại Phủ Dương Xuân gần đấy. Trong sử
sách, Chùa Thiền Lâm và Phủ Dương Xuân của thời Nguyễn là hai ngón tay
trên một bàn tay. Cùng với sự biến mất một cách bí ẩn của Phủ, ngôi chùa
cũng đã bị xoá sổ trong một thời gian dài trước đó. Điều kỳ lạ, khoảng
năm 1987, khi Tì kheo Thích Chơn Trí đến đây khai hoang, dựng lại ngôi
chùa, ông đã phát hiện nhiều kỷ vật bí ẩn dưới lòng đất, cùng nhiều lăng
bia bị đục nát.

Nơi
đầu tiên chúng tôi tìm đến là ngôi chùa chất chứa toàn bộ bí mật về
hành trình tìm mộ Quang Trung của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân. Chùa
nằm trên đỉnh gò đồi Bình An, thuộc xã Dương Xuân và bị cắt ra làm hai
bởi con đường Điện Biên Phủ. Hoà thượng Thích Chơn Trí giờ đã là trụ trì
chùa Thiền Lâm kể: Khi ông cùng một số đệ tử đến đây, chùa chỉ có một
chánh điện và một điện thờ mẫu mục nát, không có nơi ăn, ở. Xung quanh
chùa toàn là mộ địa. Thầy trò ông phải đào đất trồng rau chống đói. Khi
đặt những nhát cuốc đầu tiên, ông bàng hoàng thấy đầu cuốc nẩy lên toé
lửa vì chạm phải gạch đá lạ. Đào bất cứ chỗ nào trong vườn chùa, ông
cũng chạm phải các hố gạch vồ, đá cổ. Hàng ngàn viên gạch vồ, mấy chục
viên đá tảng và hàng chục viên đá khối khác đã được khai quật. Điều lạ
lùng là các viên gạch có màu đỏ như son. Thậm chí nhiều viên còn nguyên
cả khuôn dấu cổ.

Thầy
trò ông mang những viên gạch son này rửa sạch, những viên còn lành ông
để xây tường, những viên bị bể thì đem đập ra đúc bờ lô. Các viên đá
tảng, đá khối được dùng xây hồ nước, làm đôn kê chậu cảnh.

Điều
đáng ngạc nhiên, tại ngã ba đường lên chùa Vạn Phước (cạnh chùa Thiền
Lâm) cũng có hai phiến đá táng cột cỡ 45x45cm được chôn xuống mặt đường.
Những viên đá này được nghi ngờ là có xuất xứ từ một cung điện lớn hiếm
có. Gần đây, khi TP Huế kiên cố hoá lại đường sá, hai viên đá quý này
bỗng dưng biến mất. Người dân xung quanh khu vực đất chùa Thiền Lâm cho
biết, ở vùng này trước kia người ta đào được hàng trăm viên đá như thế
và đã bán dần cho các thợ làm bia mộ. Những viên xấu không làm bia được,
dân mới đem ra lát đường. Đi theo con đường này khoảng vài chục mét,
người ta phát hiện ra nhiều đống gạch ngói, vôi vữa cũ được vun thành bờ
rào phía sau chùa Vạn Phước. Đống phế liệu này chứng tỏ đã có những
công trình kiến trúc cổ bị triệt hạ.

“Giếng Loạn”

Cách
Chùa Thiền Lâm khoảng nửa cây số, ngay cạnh con suối Tiên và một hồ sen
bán nguyệt (giờ đã trồng đầy rau răm) là chùa sư nữ Diệu Đức. Quanh khu
vực chùa Diệu Đức, ông Xuân còn khám phá nhiều giếng cổ kỳ lạ. Giếng cổ
được xây bằng những viên đá to xếp chồng lên nhau và là nguồn nước sinh
hoạt chính của chùa. Nó vốn bị bỏ hoang và được ông Phó bảng Nguyễn
Đình Hiến, nguyên Phủ doãn Thừa Thiên phát hiện vào năm 1930 khi ông đến
chơi vùng này. Không ai đo được độ sâu của giếng là bao nhiêu, nhưng
dân chúng thì khẳng định mùa hè nước mát lạnh như đá, mùa đông lại ấm áp
kỳ lạ. Đặc biệt giếng chưa bao giờ cạn trong khi những giếng đào mới
của dân xung quanh vẫn bị khô vào mùa hạn. Ném một viên đá xuống nước,
tiếng động vọng lên nghe rất âm và thanh. Người địa phương cho biết
giếng thường được gọi là “giếng loạn”.

Trở
lại bờ Bắc con suối Tiên và hồ bán nguyệt, ông Xuân lại khám phá thêm
được một “giếng loạn” thứ hai. Giếng này đã bị chùa Thiền Lâm lấp vào
năm 1992. Theo ông Xuân, cùng với các tấm bia và giếng cổ, chứng tỏ đây
là một vùng từng có đông người ở, về sau bỏ hoang và phải chăng vì liên
quan đến chuyện “binh loạn ” với Tây Sơn?

Mả loạn


phía trái con đường đi qua Giếng Loạn, người dân phát hiện ra nhiều
ngôi mộ tập thể. Mỗi ngôi vun cao và dài như những vồng khoai lớn. Một
số mộ hoang này đã có ở đó từ xưa, một số mới dời vào đây khi người Pháp
làm đường Nam Giao Tân Lộ và tất cả đều được đặt tên là “mả loạn”. Một
điều lạ lùng nữa là khi gia đình ông Nguyễn Văn Minh (ở sát chùa Diệu
Đức) phá nhà làm lại, đã vô tình phát hiện thấy dưới nền nhà có 27 bộ
xương cốt chồng lên nhau. Ông Minh sợ quá, vội chuyển 27 bộ xương ấy ra
táng ở vườn nhà của mình. Nhiều người dân ở đây cũng cho biết, chung
quanh chùa Thiền Lâm cũng tìm thấy nhiều hố tro cốt của nhiều người từng
bị dập xuống như ở nhà ông Minh.



[You must be registered and logged in to see this image.]

Tấm bia đá đã bị mài nhẵn hết chữ, đặt trên lưng rùa
và được dựng tại sân sau chùa Thiền Lâm



Theo
ông Xuân hồ nghi, phải chăng những hài cốt vô danh này chính là hài cốt
của quân Tây Sơn thua trận đã bị quân Nguyễn tàn sát và chôn tập thể
khi Nguyễn Ánh trở lại Phú Xuân hồi đầu thế kỷ XIX? Cùng với những giếng
cổ đã từng cấp nước uống cho các lực lượng của Tây Sơn trong cung điện
Đan Dương bị miệt thị là “giếng loạn”, hàng trăm ngôi mộ hoang đã mấy
thế kỷ nay cũng được gọi với cái tên dân gian “mả loạn” để chỉ những gì
thuộc về quân Tây Sơn.

Cung điện trong lòng đất

Qua
những hiện vật phát hiện ở chùa Thiền Lâm, ông Xuân khẳng định chùa đã
bị dời đi và sau này được xây dựng lại trên một khu đất đã từng vùi lấp
một kiến trúc hoành tráng nào đó từng bị triệt phá. Những gạch vồ, đá
lát, đá táng cột, đá tảng, đá trang trí ở đầu cột trụ và nhiều loại đá
có hình thù khác nhau không thể của dân chúng trong bất cứ thời đại nào
mà là một vùng cung điện vua chúa. Ở đây chính là
Phủ Dương Xuân của các chúa Nguyễn. Như vậy, Phủ Dương Xuân của các
chúa Nguyễn và Cung điện Đan Dương của Vua Quang Trung là một. Nghĩa là
Vua Quang Trung khi lên ngôi đã cải tạo Phủ Dương Xuân thành Cung điện
Đan Dương. Vì thế sau này, khi Vua Quang Trung băng hà vào cuối 1801,
quan quân nhà Nguyễn đã trả thù bằng cách quật phá và vùi Cung điện Đan
Dương xuống đất.

Khu
vực Cung điện Đan Dương đã rõ khi xác định được nó toạ lạc trên vòng
tròn: Chùa Thiền Lâm, chùa Vạn Phước (nơi có các đống vôi vữa cũ vun
thành đống) và chùa Diệu Đức (nơi có các giếng loạn có chứa trong lòng
những bức liễn và mả loạn). Chỉ còn câu hỏi: “Lăng mộ vua Quang Trung ở
đâu trong Cung điện Đan Dương?”. Địa điểm huyệt mộ táng Vua Quang Trung
đã bị quật phá cụ thể ở chỗ nào trong khu vực cung điện này?

Để
xác định chính xác nơi tồn tại huyệt mộ trong khu vực khả nghi có tồn
tại Cung điện Đan Dương, Ông Xuân đã mời thầy địa lý Dương Văn Sinh xác
định địa điểm và quyết định thám sát thử. Thật bất ngờ, hàng trăm câu
chuyện huyền bí cũng được lật lên theo từng nhát cuốc.

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết