Lăng Ba Vành có phải là lăng
mộ Vua Quang Trung?
Giadinh.net - Cái chết của vua Quang Trung vốn đã chứa đựng quá
nhiều điều bí mật, không những thế, tháng 11 năm 1801, vua Gia Long lại
cho phá huỷ nơi chôn cất ông và san thành bình địa. Hơn 200 năm qua, vị
trí lăng mộ Quang Trung chính xác ở nơi nào vẫn là dấu hỏi lớn?
Và đã có quá nhiều giả thuyết gây nên
những cuộc tranh cãi đến mức căng thẳng. Chúng tôi đã có cuộc hành
hương về thành Phú Xuân (Huế) xưa, và ghi chép được rất nhiều điều lạ...
Không rõ rằng, chuyện tìm mộ Quang Trung Hoàng đế và mộ Thành Cát Tư
Hãn, câu chuyện nào chứa đựng nhiều bí ẩn hơn?
Mộ thiêng trong hoang phế
Người đầu tiên tung “quả bom tấn” ra dư
luận về vấn đề lăng mộ Quang Trung là ông giáo Trần Viết Điền - Giảng
viên môn Vật Lý trường ĐH Sư phạm Huế. Trước những tranh cãi cho rằng,
lăng Ba Vành là lăng Đức ý hầu Lê Quang Đại, một vị quan dưới triều chúa
Nguyễn Phúc Khoát đã chết vào đầu năm 1746, bằng phương pháp vật lý,
ông Điền đưa ra 5 luận cứ nhằm vén bức màn bí mật và lật lại hoàn toàn
vấn đề, khẳng định lăng Ba Vành chính là lăng mộ Quang Trung.
Lăng Ba Vành đổ nát
Phế tích lăng Ba Vành
Lăng Ba Vành nằm ở ngọn đồi Thiên An,
phía Tây thành phố Huế. Một người chăn bò ở gần đấy thấy chúng tôi lụp
xụp áo mưa tìm lên lăng thì lắc đầu nửa tin nửa ngờ. Theo như ông biết,
cách đây hàng vài chục năm đã có nhiều người đến đây đào bới nghiên cứu.
Nhưng đấy là chuyện của thời ông mới lấy vợ. Còn giờ đây, khi con ông
đã sắp lập gia đình, cái lăng mộ cổ này vẫn vậy và càng ngày, nó càng bị
trâu bò ngứa sừng đào bới cho tung toé. Ông vạch cây, rẽ lối chỉ đường
cho chúng tôi mò đến tận lăng.
Theo
ý ông Điền, lăng Ba Vành chính là lăng mộ Vua Quang Trung. Thế nhưng
tại sao những người đời sau lại cho rằng đấy là lăng của Đức ý hầu Lê
Quang Đại? Tìm tòi ròng rã nhiều năm, ông Điền phát hiện ra rằng đã có
nhiều người tìm cách biến nơi này thành... một ngôi mộ giả!
Phế tích lăng Ba Vành nằm giữa rừng thông bạt
ngàn và chằng chịt bởi những lùm bụi mâm xôi. Cây rựa trong tay người
chăn bò tốt bụng khua lên loang loáng. Một khoảng tường thành xây dựng
bằng các phiến đá to chồng lên nhau thấp thoáng hiện ra sau đám cỏ cây
rậm rạp. Những viên gạch sứt mẻ, nhưng với “người trần mắt thịt” như
chúng tôi vẫn có thể hình dung ra đấy là một bức tường đã từng được xây
rất kiên cố. Vừa phạt quang bụi rậm, người đàn ông có đôi bàn tay vàng
khè của một người tứ mùa làm ruộng kể: Cách đây gần 20 năm, khu vực này
còn có cả khỉ. Đường lên lăng gồ ghề, xóc nẩy. Thi thoảng có việc lên
núi lấy củi, ông thấy một số viên đá to, dài cả sải tay bị đổ cạnh lăng
đã bị cỏ mọc trùm lên. Ngoài ra, còn có một số bức phù điêu có khắc chữ
đã mòn trắng bị trẻ chăn bò đập phá rồi ném cách lăng đến 5m. Một thời
gian sau, có nhiều nhà khoa học đến đây. Họ phát quang cây cối cả một
vùng, rồi đào bới nhặt nhạnh từng mảnh vỡ về ghép lại để nghiên cứu và
mở ra nhiều chi tiết lạ kỳ của một ngôi lăng tưởng như đã chìm trong
hoang phế.
Tôi nhớ lại lời của ông Trần Viết Điền
trước khi mình khăn gói lên tận Thiên An xem lăng: “Ba Vành trước đây là
lăng của một vị quan dưới triều chúa Nguyễn Phúc Khoát tên là Lê Quang
Đại đã chết vào đầu năm 1746. Sau đó, vua Gia Long cho san thành bình
địa tất cả các địa điểm có liên quan đến vua Quang Trung. Lăng Ba Vành
hoang phế từ đấy. Vì bị cỏ cây che lấp nên ai cũng tưởng ngôi lăng có
qui mô vừa. Chúng tôi đã phát lộ và dùng thước đo đạc mới thấy qui mô
của lăng, dẫu đã bị quật phá nặng vẫn có quy mô rất hoành tráng”.
Ngôi lăng độc nhất vô nhị
Điều đầu tiên đập vào mắt sau khi đoàn
nghiên cứu của thầy trò Trần Viết Điền phát lộ cây cối là nhìn toàn
cảnh, lăng Ba Vành có hình elip với các trục lớn 60m, trục nhỏ 40m. Quy
mô của một ngôi lăng như thế này là quá hoành tráng, chưa kể tân nguyệt
trì (hồ trăng non) bên cạnh. Lăng gồm 3 uynh thành ghép lại. Uynh ngoài
hình móng ngựa, kết thúc bằng hai trụ cửa khá lớn. Uynh thứ hai có hình
cong ngược với 4 phù điêu có hình voi đắp nổi. Uynh trong cùng là hình
tượng hai con cù dậy, ôm nấm mộ xây có hình mai rùa, còn đầu rùa như
ngậm cái bia thẻ. Các uynh thành có một trục đối xứng hình học và trục
này theo hướng Tây Nam
– Đông Bắc, nghiêng Bắc góc 60o. Còn đường thần
đạo của lăng, vuông góc với trục đối xứng vừa nêu, tọa hướng càn (Đông
Nam- Tây Bắc, nghiêng Bắc 30o). Đây mới là hướng chính của ngôi lăng.
Trục nhỏ này là trục đối xứng của nhà bia có đế chữ thập, từng có bia
thờ, đã bị ai đó băm nát, cắt đầu bia, gọt tai bia...
Nghiên cứu sâu thêm, ông Điền hốt hoảng
nhận ra giữa uynh thành 2 và uynh thành 3 có một hầm hình hộp, nhận
đường thần đạo làm trục đối xứng và hiện nay nắp hầm còn ở bờ tân nguyệt
trì trước lăng. Nắp này là một phiến đá lớn được gọt đẽo mà thành. Theo
các nhà khoa học, hầm này có khả năng chứa các đồ thờ và chủ yếu là các
vật tùy thân của chủ nhân ngôi lăng. Khảo sát miệng hố, đục cái nấm xây
và đoán hướng huyệt của ngôi mộ, ông nhận thấy về phương pháp vật lý và
dịch lý Đông phương, thi thể của chủ nhân ngôi lăng nằm theo hướng thần
đạo, đầu tọa tốn, chân hướng càn, bên trái chủ nhân là 3 cung liền, và
bên phải chủ nhân là 3 cung đứt (đó là 3 cửa vào lăng). Người thiết kế
lăng đã xử lý rất tuyệt diệu về phong thủy và dịch lý Đông phương. Theo
đường thần đạo mà tính, 3 uynh thành tạo thành quẻ càn kép (bát thuận
càn), theo hướng vuông góc với đường thần đạo mà tính thì đạt quẻ thái
(quẻ khôn ghép với quẻ càn). Đây là lý do ngôi lăng này có đến 3 uynh
thành đăng đối hình học và cả đăng đối dịch lý. Các lăng mộ ở Huế, trừ
lăng các vua, không tìm thấy ngôi lăng thứ hai nào như vậy.
Những hoa văn kỳ lạ
Điều mà ông Điền khám phá ra là hai con
cù dậy tìm thấy trong mộ là tiền thân của con rồng bởi chúng có cái sừng
đắp nổi, hoàn toàn khác với giống cù như một số tài liệu trước đó đã
có. Mô tip trang trí này cũng thuộc loại độc nhất vô nhị ở Huế. 4 phù
điêu đắp nổi 4 con voi ở uynh thành thứ 2 đều được xác định không phải
hình tượng voi chầu, cúp vòi phủ phục như vẫn thấy ở lăng mộ vua chúa
triều Nguyễn, triều Lê. Voi ở lăng Ba Vành uốn vòi lên trên, cặp ngà
cũng chĩa lên và đặc biệt trên đầu voi cũng... mọc sừng.
Toàn bộ công trình kiến trúc lăng mộ được
thiết kế nhất quán theo thuật phong thuỷ và dịch lý phương Đông. Hoa
văn, sừng voi, ngà voi, sừng cá sấu, mí mắt cá sấu, các dải hồi văn luôn
có một vạch liền nét (chỉ dương) và thành phần thứ hai là hai vạch đứt
xếp lại, nhỏ hơn, khép nép, e ấp (chỉ âm). Đây cũng là một lối trang trí
độc đáo nữa, chứng tỏ người thiết kế rất uyên thâm dịch lý và rất yêu
kính chủ nhân ngôi lăng.
Theo khám phá ban đầu của ông Điền, tân
nguyệt trì bên phải ba uynh thành có chữ nguyệt, bửu thành có chữ nhật.
Nhật nguyệt nghĩa là Minh, ý chỉ người nằm trong lăng là bậc minh quân:
“Nghiên cứu các lăng tẩm của các vua và mẹ vua ở Huế, chúng tôi nhận
thấy một qui luật là chỉ có nhà vua từng lên ngôi và hoàng thái hậu (mẹ
vua) khi mất, xây lăng mộ mới có Tân nguyệt trì, cha của vua mà không
làm vua thì trước lăng không được xây Tân nguyệt trì. Lăng Gia Long,
lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức, lăng Dục Đức, lăng Đồng
Khánh, lăng Thành Thái, lăng Khải Định và lăng mẹ của các vị vua này đều
có Tân nguyệt trì và đương nhiên có nhà bia thánh đức thần công, với đế
chữ thập. Như vậy, lăng Ba Vành có đủ các cấu kiện độc đáo: nhà bia có
bệ chữ thập, trước bửu thành có Tân nguyệt trì mà chỉ có bậc đế vương
mới được xây dựng trang trí như thế, bởi một ông quan thời phong kiến,
dù có tiền nhiều cũng không dám xây lăng như thế này vì dễ mang tội khi
quân”.
Mười năm nghiên cứu một... loại gạch
Để chứng minh lăng Ba Vành là lăng vua
Quang Trung một cách khoa học và thuyết phục, ông Điền đã dốc toàn lực
trong 10 năm chỉ nghiên cứu một loại gạch phát hiện được trong lăng mộ
này. Và để chứng minh đây là loại gạch của Tây Sơn sản xuất và sử dụng
trong các công trình kiến trúc văn hóa, ông Điền đã phải sưu tầm các
loại gạch được sản xuất và sử dụng từ thế kỷ 14 đến nay trên đất Thuận
Hóa.
[You must be registered and logged in to see this link.]
Ông Điền và viên gạch Tây Sơn được tìm thấy ở lăng Ba Vành
Nơi đầu
tiên ông khăn gói quả mướp đến tìm hiểu là đàn Viên Khâu của thời đại
Tây Sơn ở Núi Bân. ở đàn Viên Khâu còn một số mảnh gạch thẻ nung non,
dày 2cm, rộng 12cm, dài 14cm. Sau đó nhóm ông đã kiểm chứng kết quả ở
những công trình kiến trúc mà Tây Sơn có tôn tạo, dựng thêm... Không
ngại gian khổ, ông đã đến Khải Thánh Từ (nơi mà sau này trở thành Văn
miếu của triều Tây Sơn) đã từng có mở thêm học cung, nghĩa là có xây
dựng bằng gạch Tây Sơn. Thật thú vị và bất ngờ lớn nhất là ở đây còn rất
nhiều loại gạch đã phát hiện ở Núi Bân. Ông lại tiếp tục lên chùa Thiền
Lâm, nơi Thái sư Bùi Đắc Tuyên trưng dụng làm dinh thự của Thái sư và
đã phát hiện rất nhiều loại gạch Tây Sơn như vậy... Ông lại khăn gói về
tận Bãi Dâu, đến miếu Ông Mọi, nơi từng thờ một vị chỉ huy người Ba Na
tử trận năm Bính Ngọ 1786, rồi lên chùa Linh Mụ... thật lạ, tất cả những
nơi này đều có rất nhiều gạch của Tây sơn. Để khẳng định chắc chắn thời
Tây Sơn có một loại gạch riêng, ông đã tiến hành kiểm chứng loại gạch
này ở các công trình thuần thời Nguyễn như lăng các bà vợ của chúa
Nguyễn... thì không phát hiện loại gạch nào như vậy.
Ông Điền đã quay lại khảo sát cả vùng đồi
Thiên An và tìm thấy trong lăng Ba Vành và xung quanh còn rất nhiều
gạch Tây Sơn cùng loại. Như vậy, theo ông Điền, lăng Ba Vành là công
trình kiến trúc do Tây Sơn xây dựng.
mộ Vua Quang Trung?
Giadinh.net - Cái chết của vua Quang Trung vốn đã chứa đựng quá
nhiều điều bí mật, không những thế, tháng 11 năm 1801, vua Gia Long lại
cho phá huỷ nơi chôn cất ông và san thành bình địa. Hơn 200 năm qua, vị
trí lăng mộ Quang Trung chính xác ở nơi nào vẫn là dấu hỏi lớn?
Và đã có quá nhiều giả thuyết gây nên
những cuộc tranh cãi đến mức căng thẳng. Chúng tôi đã có cuộc hành
hương về thành Phú Xuân (Huế) xưa, và ghi chép được rất nhiều điều lạ...
Không rõ rằng, chuyện tìm mộ Quang Trung Hoàng đế và mộ Thành Cát Tư
Hãn, câu chuyện nào chứa đựng nhiều bí ẩn hơn?
Mộ thiêng trong hoang phế
Người đầu tiên tung “quả bom tấn” ra dư
luận về vấn đề lăng mộ Quang Trung là ông giáo Trần Viết Điền - Giảng
viên môn Vật Lý trường ĐH Sư phạm Huế. Trước những tranh cãi cho rằng,
lăng Ba Vành là lăng Đức ý hầu Lê Quang Đại, một vị quan dưới triều chúa
Nguyễn Phúc Khoát đã chết vào đầu năm 1746, bằng phương pháp vật lý,
ông Điền đưa ra 5 luận cứ nhằm vén bức màn bí mật và lật lại hoàn toàn
vấn đề, khẳng định lăng Ba Vành chính là lăng mộ Quang Trung.
Lăng Ba Vành đổ nát
Phế tích lăng Ba Vành
Lăng Ba Vành nằm ở ngọn đồi Thiên An,
phía Tây thành phố Huế. Một người chăn bò ở gần đấy thấy chúng tôi lụp
xụp áo mưa tìm lên lăng thì lắc đầu nửa tin nửa ngờ. Theo như ông biết,
cách đây hàng vài chục năm đã có nhiều người đến đây đào bới nghiên cứu.
Nhưng đấy là chuyện của thời ông mới lấy vợ. Còn giờ đây, khi con ông
đã sắp lập gia đình, cái lăng mộ cổ này vẫn vậy và càng ngày, nó càng bị
trâu bò ngứa sừng đào bới cho tung toé. Ông vạch cây, rẽ lối chỉ đường
cho chúng tôi mò đến tận lăng.
Theo
ý ông Điền, lăng Ba Vành chính là lăng mộ Vua Quang Trung. Thế nhưng
tại sao những người đời sau lại cho rằng đấy là lăng của Đức ý hầu Lê
Quang Đại? Tìm tòi ròng rã nhiều năm, ông Điền phát hiện ra rằng đã có
nhiều người tìm cách biến nơi này thành... một ngôi mộ giả!
Phế tích lăng Ba Vành nằm giữa rừng thông bạt
ngàn và chằng chịt bởi những lùm bụi mâm xôi. Cây rựa trong tay người
chăn bò tốt bụng khua lên loang loáng. Một khoảng tường thành xây dựng
bằng các phiến đá to chồng lên nhau thấp thoáng hiện ra sau đám cỏ cây
rậm rạp. Những viên gạch sứt mẻ, nhưng với “người trần mắt thịt” như
chúng tôi vẫn có thể hình dung ra đấy là một bức tường đã từng được xây
rất kiên cố. Vừa phạt quang bụi rậm, người đàn ông có đôi bàn tay vàng
khè của một người tứ mùa làm ruộng kể: Cách đây gần 20 năm, khu vực này
còn có cả khỉ. Đường lên lăng gồ ghề, xóc nẩy. Thi thoảng có việc lên
núi lấy củi, ông thấy một số viên đá to, dài cả sải tay bị đổ cạnh lăng
đã bị cỏ mọc trùm lên. Ngoài ra, còn có một số bức phù điêu có khắc chữ
đã mòn trắng bị trẻ chăn bò đập phá rồi ném cách lăng đến 5m. Một thời
gian sau, có nhiều nhà khoa học đến đây. Họ phát quang cây cối cả một
vùng, rồi đào bới nhặt nhạnh từng mảnh vỡ về ghép lại để nghiên cứu và
mở ra nhiều chi tiết lạ kỳ của một ngôi lăng tưởng như đã chìm trong
hoang phế.
Tôi nhớ lại lời của ông Trần Viết Điền
trước khi mình khăn gói lên tận Thiên An xem lăng: “Ba Vành trước đây là
lăng của một vị quan dưới triều chúa Nguyễn Phúc Khoát tên là Lê Quang
Đại đã chết vào đầu năm 1746. Sau đó, vua Gia Long cho san thành bình
địa tất cả các địa điểm có liên quan đến vua Quang Trung. Lăng Ba Vành
hoang phế từ đấy. Vì bị cỏ cây che lấp nên ai cũng tưởng ngôi lăng có
qui mô vừa. Chúng tôi đã phát lộ và dùng thước đo đạc mới thấy qui mô
của lăng, dẫu đã bị quật phá nặng vẫn có quy mô rất hoành tráng”.
Ngôi lăng độc nhất vô nhị
Điều đầu tiên đập vào mắt sau khi đoàn
nghiên cứu của thầy trò Trần Viết Điền phát lộ cây cối là nhìn toàn
cảnh, lăng Ba Vành có hình elip với các trục lớn 60m, trục nhỏ 40m. Quy
mô của một ngôi lăng như thế này là quá hoành tráng, chưa kể tân nguyệt
trì (hồ trăng non) bên cạnh. Lăng gồm 3 uynh thành ghép lại. Uynh ngoài
hình móng ngựa, kết thúc bằng hai trụ cửa khá lớn. Uynh thứ hai có hình
cong ngược với 4 phù điêu có hình voi đắp nổi. Uynh trong cùng là hình
tượng hai con cù dậy, ôm nấm mộ xây có hình mai rùa, còn đầu rùa như
ngậm cái bia thẻ. Các uynh thành có một trục đối xứng hình học và trục
này theo hướng Tây Nam
– Đông Bắc, nghiêng Bắc góc 60o. Còn đường thần
đạo của lăng, vuông góc với trục đối xứng vừa nêu, tọa hướng càn (Đông
Nam- Tây Bắc, nghiêng Bắc 30o). Đây mới là hướng chính của ngôi lăng.
Trục nhỏ này là trục đối xứng của nhà bia có đế chữ thập, từng có bia
thờ, đã bị ai đó băm nát, cắt đầu bia, gọt tai bia...
Nghiên cứu sâu thêm, ông Điền hốt hoảng
nhận ra giữa uynh thành 2 và uynh thành 3 có một hầm hình hộp, nhận
đường thần đạo làm trục đối xứng và hiện nay nắp hầm còn ở bờ tân nguyệt
trì trước lăng. Nắp này là một phiến đá lớn được gọt đẽo mà thành. Theo
các nhà khoa học, hầm này có khả năng chứa các đồ thờ và chủ yếu là các
vật tùy thân của chủ nhân ngôi lăng. Khảo sát miệng hố, đục cái nấm xây
và đoán hướng huyệt của ngôi mộ, ông nhận thấy về phương pháp vật lý và
dịch lý Đông phương, thi thể của chủ nhân ngôi lăng nằm theo hướng thần
đạo, đầu tọa tốn, chân hướng càn, bên trái chủ nhân là 3 cung liền, và
bên phải chủ nhân là 3 cung đứt (đó là 3 cửa vào lăng). Người thiết kế
lăng đã xử lý rất tuyệt diệu về phong thủy và dịch lý Đông phương. Theo
đường thần đạo mà tính, 3 uynh thành tạo thành quẻ càn kép (bát thuận
càn), theo hướng vuông góc với đường thần đạo mà tính thì đạt quẻ thái
(quẻ khôn ghép với quẻ càn). Đây là lý do ngôi lăng này có đến 3 uynh
thành đăng đối hình học và cả đăng đối dịch lý. Các lăng mộ ở Huế, trừ
lăng các vua, không tìm thấy ngôi lăng thứ hai nào như vậy.
Những hoa văn kỳ lạ
Điều mà ông Điền khám phá ra là hai con
cù dậy tìm thấy trong mộ là tiền thân của con rồng bởi chúng có cái sừng
đắp nổi, hoàn toàn khác với giống cù như một số tài liệu trước đó đã
có. Mô tip trang trí này cũng thuộc loại độc nhất vô nhị ở Huế. 4 phù
điêu đắp nổi 4 con voi ở uynh thành thứ 2 đều được xác định không phải
hình tượng voi chầu, cúp vòi phủ phục như vẫn thấy ở lăng mộ vua chúa
triều Nguyễn, triều Lê. Voi ở lăng Ba Vành uốn vòi lên trên, cặp ngà
cũng chĩa lên và đặc biệt trên đầu voi cũng... mọc sừng.
Toàn bộ công trình kiến trúc lăng mộ được
thiết kế nhất quán theo thuật phong thuỷ và dịch lý phương Đông. Hoa
văn, sừng voi, ngà voi, sừng cá sấu, mí mắt cá sấu, các dải hồi văn luôn
có một vạch liền nét (chỉ dương) và thành phần thứ hai là hai vạch đứt
xếp lại, nhỏ hơn, khép nép, e ấp (chỉ âm). Đây cũng là một lối trang trí
độc đáo nữa, chứng tỏ người thiết kế rất uyên thâm dịch lý và rất yêu
kính chủ nhân ngôi lăng.
Theo khám phá ban đầu của ông Điền, tân
nguyệt trì bên phải ba uynh thành có chữ nguyệt, bửu thành có chữ nhật.
Nhật nguyệt nghĩa là Minh, ý chỉ người nằm trong lăng là bậc minh quân:
“Nghiên cứu các lăng tẩm của các vua và mẹ vua ở Huế, chúng tôi nhận
thấy một qui luật là chỉ có nhà vua từng lên ngôi và hoàng thái hậu (mẹ
vua) khi mất, xây lăng mộ mới có Tân nguyệt trì, cha của vua mà không
làm vua thì trước lăng không được xây Tân nguyệt trì. Lăng Gia Long,
lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức, lăng Dục Đức, lăng Đồng
Khánh, lăng Thành Thái, lăng Khải Định và lăng mẹ của các vị vua này đều
có Tân nguyệt trì và đương nhiên có nhà bia thánh đức thần công, với đế
chữ thập. Như vậy, lăng Ba Vành có đủ các cấu kiện độc đáo: nhà bia có
bệ chữ thập, trước bửu thành có Tân nguyệt trì mà chỉ có bậc đế vương
mới được xây dựng trang trí như thế, bởi một ông quan thời phong kiến,
dù có tiền nhiều cũng không dám xây lăng như thế này vì dễ mang tội khi
quân”.
Mười năm nghiên cứu một... loại gạch
Để chứng minh lăng Ba Vành là lăng vua
Quang Trung một cách khoa học và thuyết phục, ông Điền đã dốc toàn lực
trong 10 năm chỉ nghiên cứu một loại gạch phát hiện được trong lăng mộ
này. Và để chứng minh đây là loại gạch của Tây Sơn sản xuất và sử dụng
trong các công trình kiến trúc văn hóa, ông Điền đã phải sưu tầm các
loại gạch được sản xuất và sử dụng từ thế kỷ 14 đến nay trên đất Thuận
Hóa.
[You must be registered and logged in to see this link.]
Ông Điền và viên gạch Tây Sơn được tìm thấy ở lăng Ba Vành
Nơi đầu
tiên ông khăn gói quả mướp đến tìm hiểu là đàn Viên Khâu của thời đại
Tây Sơn ở Núi Bân. ở đàn Viên Khâu còn một số mảnh gạch thẻ nung non,
dày 2cm, rộng 12cm, dài 14cm. Sau đó nhóm ông đã kiểm chứng kết quả ở
những công trình kiến trúc mà Tây Sơn có tôn tạo, dựng thêm... Không
ngại gian khổ, ông đã đến Khải Thánh Từ (nơi mà sau này trở thành Văn
miếu của triều Tây Sơn) đã từng có mở thêm học cung, nghĩa là có xây
dựng bằng gạch Tây Sơn. Thật thú vị và bất ngờ lớn nhất là ở đây còn rất
nhiều loại gạch đã phát hiện ở Núi Bân. Ông lại tiếp tục lên chùa Thiền
Lâm, nơi Thái sư Bùi Đắc Tuyên trưng dụng làm dinh thự của Thái sư và
đã phát hiện rất nhiều loại gạch Tây Sơn như vậy... Ông lại khăn gói về
tận Bãi Dâu, đến miếu Ông Mọi, nơi từng thờ một vị chỉ huy người Ba Na
tử trận năm Bính Ngọ 1786, rồi lên chùa Linh Mụ... thật lạ, tất cả những
nơi này đều có rất nhiều gạch của Tây sơn. Để khẳng định chắc chắn thời
Tây Sơn có một loại gạch riêng, ông đã tiến hành kiểm chứng loại gạch
này ở các công trình thuần thời Nguyễn như lăng các bà vợ của chúa
Nguyễn... thì không phát hiện loại gạch nào như vậy.
Ông Điền đã quay lại khảo sát cả vùng đồi
Thiên An và tìm thấy trong lăng Ba Vành và xung quanh còn rất nhiều
gạch Tây Sơn cùng loại. Như vậy, theo ông Điền, lăng Ba Vành là công
trình kiến trúc do Tây Sơn xây dựng.
Được sửa bởi Người Điều Hành ngày 5/4/2011, 9:33 am; sửa lần 2.