Trích từ "Khổng Minh Thần Toán".
TRẠCH THIÊN QUẢI
Nan, nan, nan,
Hốt nhiên bình địa khởi ba lan.
Dị dị dị,
Đàm tiếu tầm thường chung hữu vọng.
Nan nan, quả thực là nan,
Bỗng nhiên bình địa ba lan nổi bùng.
Đến khi dễ, dễ vô cùng,
Dù đùa nói giỡn, vẫn thông việc mình.
(Khổng Minh)
LÔI TRẠCH QUY MUỘI
Tiều tụy vô nhân vấn,
Lâm gian thính đo quyện.
Nhất thành sơn nguyệt dịch,
Thiên lý lệ quyên quyên.
Tiều tụy nào ai có biết đâu,
Trong rừng nghe tiếng đỗ quyên sầu.
Nối trăng tiếng sáo lừng vang dội,
Ngàn dặm lệ tràn khắp Á Âu.
(Khổng Minh)
BÁT THUẦN CẤN
Công danh tuy đa thực tể,
Hà như tu luyện thành chân.
Chân thân bất hủ,
Vạn tai trường xuân.
Công danh lẩm bẩm đáng ghi,
Nhưng trong thực tế có gì hân hoan.
Tu hành chính quả mới màng,
Trường xuân muôn thuở rõ ràng biết bao.
(Khổng Minh)
THIÊN SƠN ĐỘN
Hoàng bằng báo thượng lâm,
Xuân sắc tiên minh.
Đề tiên khoái trước,
Mã thượng tốc hành trình.
Hoàng oanh đã báo tin mừng,
Xuân tươi sắc đượm tưng bừng non sông.
Bập bùng lên ngựa ruỗi dong,
Đường mây rực rỡ sự mong công thành.
(Khổng Minh)
LÔI HOẢ PHONG
Nhất sự tống thành không,
Nhất sự hoàn thành hỉ.
Nhược ngộ khẩu biên nhân,
Tâm hạ kham bằng ủy.
Việc này đã hỏng thành không,
Vẫn còn việc nọ hanh thông ý tình.
Gặp người miệng lưỡi thông minh,
Ta cần ủy thác giúp mình mới nên.
(Khổng Minh)
BÁT THUẦN KHẢM
Nhược thị hữu duyên nhân,
Nhất chỉ tiện hồi thủ.
Chấp mê bất ngộ giả,
Lầu dẫn dã bất tâu.
Nếu là người có nợ duyên,
Chỉ cần một tiếng tức liền trở về.
Say mê mãi chẳng ê hề,
Dù kêu cách mấy nào bề chịu đi.
(Khổng Minh)
TRẠCH THỦY KHỐN
Khuynh nhất bôi,
Triển sầu mi.
Thiên địa hợp,
Hảo tư vi.
Này ta rót rượu một ly,
Gọt sầu rửa hận còn gì bận tâm.
Đất trời hòa hiệp tương thân,
Xin cầu mọi việc ắt lành hanh thông.
(Khổng Minh)
SƠN PHONG CỔ
Tiềm long dĩ thụ khốn,
Thượng bất kiến vân hưng.
Trữ khang vân tứ hợp,
Phi khứ đáo thiên đình.
Con rồng nay kẹt thế cùng,
Gió mây chưa thấy nổi bùng nương lên.
Chờ xem mây tụ một bên,
Bấy giờ bay thẳng thiên đình cao xanh.
(Khổng Minh)
THỦY TRẠCH TIẾT
Trung hữu huyền cơ phú,
Kệ minh phương hiển lộ.
Mãnh nhiên ngộ thiền quang,
Đả phá quân môn lộ.
Huyền cơ trong đó có ngâm ca,
Gà gáy rồi đây trời sáng hòa.
Tỉnh ngộ thiềm quan người sẽ thấy,
Vận trình vượt bước dặm ngàn xa.
(Khổng Minh)
THIÊN LÔI VÔ VỌNG
Hỉ, hỉ, hỉ,
Xuân phong nhập đào lý.
Bất dụng cưởng ưu tiên,
Nguyệt minh nhan thiên lý.
Vui thay ôi, lắm vui thay!
Xuân xanh Đào, Lý, đêm ngày hồng tươi.
Lo âu gì, cái nỗi đời,
Dặm ngàn trăng sáng một trời hoàng huy.
(Khổng Minh)
ĐỊA HỎA MINH DI
Long nhất ngâm, vân tiện hưng,
Xung tiện trực thiên.
Khoái đổ thái bình,
Vi văn vi vũ, quân quân thần thần.
Tiếng giọng rồng ngâm mây nổi liền,
Xung lên bay thẳng cửu trùng thiên.
Thái bình tiên cảnh nay mau thấy,
Văn võ quần thần ý tự nhiên.
(Khổng Minh)
PHONG THIÊN TIỂU SÚC
Sự hữu thiện,
Diện hữu quang.
Chung thủa hảo thương lượng,
Hồ trung nhật nguyệt trùng.
Công việc hanh thông tâm trí vui,
Mặt mày sáng sủa nét tươi cười.
Chung quy mọi việc dễ thương lượng,
Bầu bí vinh hoa hưởng cuộc đời.
(Khổng Minh)
TRẠCH THIÊN QUẢI
Nan, nan, nan,
Hốt nhiên bình địa khởi ba lan.
Dị dị dị,
Đàm tiếu tầm thường chung hữu vọng.
Nan nan, quả thực là nan,
Bỗng nhiên bình địa ba lan nổi bùng.
Đến khi dễ, dễ vô cùng,
Dù đùa nói giỡn, vẫn thông việc mình.
(Khổng Minh)
LÔI TRẠCH QUY MUỘI
Tiều tụy vô nhân vấn,
Lâm gian thính đo quyện.
Nhất thành sơn nguyệt dịch,
Thiên lý lệ quyên quyên.
Tiều tụy nào ai có biết đâu,
Trong rừng nghe tiếng đỗ quyên sầu.
Nối trăng tiếng sáo lừng vang dội,
Ngàn dặm lệ tràn khắp Á Âu.
(Khổng Minh)
BÁT THUẦN CẤN
Công danh tuy đa thực tể,
Hà như tu luyện thành chân.
Chân thân bất hủ,
Vạn tai trường xuân.
Công danh lẩm bẩm đáng ghi,
Nhưng trong thực tế có gì hân hoan.
Tu hành chính quả mới màng,
Trường xuân muôn thuở rõ ràng biết bao.
(Khổng Minh)
THIÊN SƠN ĐỘN
Hoàng bằng báo thượng lâm,
Xuân sắc tiên minh.
Đề tiên khoái trước,
Mã thượng tốc hành trình.
Hoàng oanh đã báo tin mừng,
Xuân tươi sắc đượm tưng bừng non sông.
Bập bùng lên ngựa ruỗi dong,
Đường mây rực rỡ sự mong công thành.
(Khổng Minh)
LÔI HOẢ PHONG
Nhất sự tống thành không,
Nhất sự hoàn thành hỉ.
Nhược ngộ khẩu biên nhân,
Tâm hạ kham bằng ủy.
Việc này đã hỏng thành không,
Vẫn còn việc nọ hanh thông ý tình.
Gặp người miệng lưỡi thông minh,
Ta cần ủy thác giúp mình mới nên.
(Khổng Minh)
BÁT THUẦN KHẢM
Nhược thị hữu duyên nhân,
Nhất chỉ tiện hồi thủ.
Chấp mê bất ngộ giả,
Lầu dẫn dã bất tâu.
Nếu là người có nợ duyên,
Chỉ cần một tiếng tức liền trở về.
Say mê mãi chẳng ê hề,
Dù kêu cách mấy nào bề chịu đi.
(Khổng Minh)
TRẠCH THỦY KHỐN
Khuynh nhất bôi,
Triển sầu mi.
Thiên địa hợp,
Hảo tư vi.
Này ta rót rượu một ly,
Gọt sầu rửa hận còn gì bận tâm.
Đất trời hòa hiệp tương thân,
Xin cầu mọi việc ắt lành hanh thông.
(Khổng Minh)
SƠN PHONG CỔ
Tiềm long dĩ thụ khốn,
Thượng bất kiến vân hưng.
Trữ khang vân tứ hợp,
Phi khứ đáo thiên đình.
Con rồng nay kẹt thế cùng,
Gió mây chưa thấy nổi bùng nương lên.
Chờ xem mây tụ một bên,
Bấy giờ bay thẳng thiên đình cao xanh.
(Khổng Minh)
THỦY TRẠCH TIẾT
Trung hữu huyền cơ phú,
Kệ minh phương hiển lộ.
Mãnh nhiên ngộ thiền quang,
Đả phá quân môn lộ.
Huyền cơ trong đó có ngâm ca,
Gà gáy rồi đây trời sáng hòa.
Tỉnh ngộ thiềm quan người sẽ thấy,
Vận trình vượt bước dặm ngàn xa.
(Khổng Minh)
THIÊN LÔI VÔ VỌNG
Hỉ, hỉ, hỉ,
Xuân phong nhập đào lý.
Bất dụng cưởng ưu tiên,
Nguyệt minh nhan thiên lý.
Vui thay ôi, lắm vui thay!
Xuân xanh Đào, Lý, đêm ngày hồng tươi.
Lo âu gì, cái nỗi đời,
Dặm ngàn trăng sáng một trời hoàng huy.
(Khổng Minh)
ĐỊA HỎA MINH DI
Long nhất ngâm, vân tiện hưng,
Xung tiện trực thiên.
Khoái đổ thái bình,
Vi văn vi vũ, quân quân thần thần.
Tiếng giọng rồng ngâm mây nổi liền,
Xung lên bay thẳng cửu trùng thiên.
Thái bình tiên cảnh nay mau thấy,
Văn võ quần thần ý tự nhiên.
(Khổng Minh)
PHONG THIÊN TIỂU SÚC
Sự hữu thiện,
Diện hữu quang.
Chung thủa hảo thương lượng,
Hồ trung nhật nguyệt trùng.
Công việc hanh thông tâm trí vui,
Mặt mày sáng sủa nét tươi cười.
Chung quy mọi việc dễ thương lượng,
Bầu bí vinh hoa hưởng cuộc đời.
(Khổng Minh)
thật ra, tựa của mỗi bài thơ là tên của một quẻ Bói Dịch. Tổng cộng thì có 64 quẻ Dịch (64 quẻ kép), và tất nhiên là cũng có 64 bài thơ. Bói Dịch thì dựa vào Kinh Dịch, và Kinh Dịch là một trong những bộ sách rất lâu đời và kỳ lạ của thế giới, mô tả hệ thống tư tưởng triết học và vũ trụ học của người Trung Hoa cổ đại. Có biết lá cờ của Hàn Quốc không? Trên lá cờ có in hình vòng tròn lưỡng nghi âm dương và 4 quẻ đơn (Càn, Khôn, Ly, Khảm).
Khổng Minh (quân sư của Lưu Bị thời Tam Quốc) thì rất giỏi về Dịch lý Đông phương, và ông có viết một cuốn sách gọi là "Khổng Minh Thần Toán" trong đó có 64 bài thơ dùng để bói.