MẠC SƯƠNG


Join the forum, it's quick and easy

MẠC SƯƠNG
MẠC SƯƠNG
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
MẠC SƯƠNG

Chuyên Dưa leo Baby Hà Lan, Đ/c ấp 4 Sông Trầu, Trảng Bom, Đồng Nai ĐT 0973764405!

Latest topics

» Dưa Tết Canh Tý 2020----ấp 6, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai
by gacon 15/1/2020, 9:45 am

» tiemview crack
by macsuong 28/5/2018, 2:30 pm

» cà chua bi trồng hữu cơ rất an toàn cho người dùng
by macsuong 28/5/2018, 9:06 am

» Lệnh điều khiển máy từ xa
by macsuong 28/5/2018, 9:05 am

» TRẢNG BOM NƠI TÔI SỐNG
by macsuong 27/4/2018, 1:01 am

» CÀ CHUA SÔ CÔ LA GIỐNG NGA
by macsuong 27/4/2018, 12:26 am

» CÀ CHUA F1 RED GIỐNG NGA
by macsuong 27/4/2018, 12:24 am

» cụ thể là chép vào thư mục này
by macsuong 1/11/2017, 10:55 am

» Đặc Sản quê Hương Xứ Nghệ
by macsuong 8/2/2017, 11:03 am

» Cảnh sát biển Việt Nam theo dõi Hải Dương-981 vào Biển Đông
by macsuong 29/12/2015, 3:52 pm

» File word bị lội "This error message can appear if the document you are
by ngoctram.nhim 19/7/2015, 10:02 pm

» Những câu châm ngôn cuộc sống ý nghĩa
by macsuong 11/11/2014, 11:29 am

» SẢN PHẨM MỚI 10/2014
by bimbip 4/10/2014, 8:17 pm

» Bảng báo giá sản phẩm mỹ nghệ
by macsuong 30/5/2014, 4:31 pm

» Cảm ơn Trung Quốc vì đưa giàn khoan đến thềm lục địa Việt Nam và sau đó...
by macsuong 9/5/2014, 10:16 am

» TẠI SAO TÔI KHÔNG VÀO ĐƯỢC DIỄN ĐÀN?
by gacon 3/12/2013, 9:46 pm

» .....CHÚC MỪNG....
by gacon 3/12/2013, 9:43 pm

» Tạo chương trình khởi động cùng window 7
by macsuong 23/10/2013, 11:01 am

» Nồi cơm khổng tử
by macsuong 26/9/2013, 9:51 pm

» OsMonitor phần mềm giám sát mạng LAN (phần mềm giám sát mạng nội bộ, mạng văn phòng)
by piaorou86 30/3/2013, 11:39 pm


You are not connected. Please login or register

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA

3 posters

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

ubuntu

avatar
.
.

Trung Quốc chuẩn bị 'đánh úp' biển Đông?

Những sự kiện tranh cãi gần đây tại biển Đông và biển Hoa Đông giữa Trung Quốc và các láng giềng cho thấy Bắc Kinh “chứng nào tật ấy”, không bao giờ ngừng các hành động khiêu khích, thậm chí, có khả năng họ triển khai các cuộc tấn công bất thình lình trong các vùng lãnh hải tranh chấp.


Lùi một bước để tiến ba bước?

Các tranh chấp lãnh thổ gay gắt giữa Trung Quốc và các láng giềng ở biển Đông và Hoa Đông từ lâu trở thành chủ đề nóng và thu hút sự chú ý không nhỏ từ công chúng. Gần như tất cả các quốc gia trong khu vực và con rồng châu Á đều có những “vụ lùm xùm, ầm ĩ” liên quan đến tranh chấp lãnh thổ, từ Hàn Quốc và Nhật Bản cho tới Philippines và Việt Nam.

Muốn ổn định nội, ngoại để chuyển giao thế hệ lãnh đạo diễn ra suôn sẻ đồng thời, tống khứ Mỹ khỏi châu Á – Thái Bình Dương và xóa bỏ hình ảnh “xấu xí” của mình đối với các quốc gia trong khu vực, Trung Quốc tỏ ra mềm mỏng, linh hoạt hơn trong các vấn đề tranh chấp lãnh hải trong khu vực.
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Wen_Jiabao_at_World_Economic_Forum_Annual_Meeting_Davos_2009

Trung Quốc đang thay đổi thay đổi cách tiếp cận, tỏ ra mềm mỏng linh hoạt hơn trong các vấn đề tranh chấp lãnh hãi tại biển Đông? Ảnh minh họa: China Daily.
Một bài bình luận mới đây đăng trên Tạp chí Foreign Affairs của Mỹ nhận xét, Trung Quốc đang trở nên ôn hòa hơn, mềm dẻo và linh hoạt hơn trong các vấn đề liên quan đến biển Đông.

Sự thay đổi phương pháp tiếp cận của Bắc Kinh đến từ tháng 6 năm ngoái, được đánh dấu bởi sự kiện Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn của Việt Nam với tư cách là Đặc phái viên của Chính phủ Việt Nam sang Trung Quốc để hội đàm về các vấn đề tranh chấp lãnh hải giữa hai nước.

Ngay sau đó, Trung Quốc và mười thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đàm phán thành công và bàn việc triển khai Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), liên quan trực tiếp đến các tranh chấp lãnh hải ở biển Đông ứng xử một cách hợp lý dựa trên các nguyên tắc và luật lệ quốc tế hồi tháng 7/2011.

Đồng thời, đầu năm nay, Trung Quốc cũng có ý định triệu tập các hội thảo về hải dương học và tự do hàng hải ở biển Đông và muốn đối thoại với các quan chức cao cấp ASEAN để thảo luận về việc thực hiện Tuyên bố về ứng xử biển Đông năm 2002.

Đáng chú ý là, các quan chức cấp cao hàng đầu của Trung Quốc - Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo - từng nhiều lần đề cập đến việc thực thi Bộ nguyên tắc chỉ đạo giải quyết các xung đột lãnh hải của Trung Quốc của nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình. Theo đó, các bên liên quan trực tiếp đến tranh chấp lãnh hải trên biển Đông gác lại những yêu sách chủ quyền của mình và cùng khai thác nguồn tài nguyên hàng hải.

Tuy nhiên, trên thực tế, Trung Quốc vẫn chứng nào tật ấy. Chỉ tính riêng tháng ba vừa qua, xảy ra hàng loạt các sự cố liên quan đế tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với các quốc gia trong khu vực. Như tranh cãi nảy lửa giữa Bắc Kinh và Seoul liên quan đến bãi đá ngầm Iedo dẫn đến việc Hàn Quốc tuyên bố xây dựng nhiều căn cứ hải quân mới trên đảo Baeknyeong và Heuksan để đối phó với các hoạt động xâm nhập trái phép của tàu cá Trung Quốc.

Bắc Kinh cũng đụng độ với Manlila liên quan đến kế hoạch xây cầu cảng nhằm "phát triển du lịch" ở đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa và tranh cãi với Hà Nội liên quan đến các động thái thăm dò dầu khí của Việt Nam và các đối tác – các tập đoàn dầu khí quốc tế - ngoài khơi xung quanh vùng lãnh hãi tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Thậm chí, tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc không chỉ dừng lại như là cuộc chiến ngôn từ. Trung Quốc không ít lần bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam một cách trái phép, chẳng hạn, vụ hai tàu cá cùng 21 ngư dân Việt Nam thuộc huyện đảo Lý Sơn bị Trung Quốc bắt vào ngày 3/3 vừa qua tại vùng biển Hoàng Sa và bị giam giữ từ đó đến nay.

Ầm thầm chuẩn bị tấn công bất thình lình?

Theo các báo cáo thăm dò và khảo sát của phương Tây và các quốc gia trong khu vực, Tây Thái Bình Dương chứa trữ lượng dầu và khí đốt vô tận. Trữ lượng tài nguyên ở khu vực này, trong các báo cáo thăm dò của Trung Quốc thậm chí, luôn cao hơn bất cứ báo cáo nào khác. Do đó, Bắc Kinh cho rằng nếu có thể kiểm soát được khu vực này, họ sẽ không phải đau đầu bận tâm về việc làm thế nào để thỏa mãn cơn thèm năng lượng của nền kinh tế, và do đó, vấn đề an ninh năng lượng sẽ được đảm bảo. Theo ước tính của Trung Quốc, dầu mỏ và khí đốt tự nhiên ở Tây Thái Bình Dương có thể đủ cho Trung Quốc “dùng xả láng” trong hơn 60 năm.

Với khoản tiền “khủng” theo các tuyên bố chính thức là 100 tỷ USD cho chi tiêu quốc phòng năm 2012 (nhiều nhà phân tích khẳng định con số thực còn cao hơn rất nhiều), Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đang nỗ lực gia tăng sức mạnh và các khả năng cần thiết để các yêu sách liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ trong khu vực và vấn đề an ninh năng lượng của Trung Quốc được đảm bảo và được tôn trọng.
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA China.military

Trung Quốc không tiếc "tiền tấn" hiện đại hóa quân đội. Ảnh minh họa: CNBC.
Các thành tựu đáng kể trong công cuộc hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc được thể hiện thông qua các tên lửa đạn đạo chống hạm mới – có khả năng buộc Mỹ phải suy nghĩ thận trọng trước khi quyết định đưa lực lượng vào giải cứu các đồng minh trong khu vực trong trường hợp một cuộc chiến giữa Trung Quốc và họ bùng lên.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng không tiếc tiền của đầu tư mở rộng kho máy bay chiến thuật mặt đất và các tên lửa hành trình có cánh đối hạm chưa kể lực lượng tàu chiến và tàu ngầm hạt nhân cũng được chú trọng phát triển.

Không thể không kể đến sự gia tăng nhanh chóng của lực lượng tàu khu trục hải quân tàu đổ bộ mới cũng như các trực thăng mẫu hạm có khả năng chở hàng nghìn hải quân Trung Quốc nhanh chóng đổ bộ tới các hòn đảo tranh chấp.

Không dừng lại ở đó, nếu không có gì thay đổi, tháng 8 năm nay, Bắc Kinh sẽ đưa tàu sân bay đầu tiên mang tên Thi Lang vào hoạt động – gia tăng đáng kể sức mạnh hải quân của Trung Quốc.

Trong khi đó, hàng loạt các bài bình luận trên các phương tiện truyền thông chính thống của Trung Quốc, đáng chú ý nhất là tờ Global Times – cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc, khái niệm về “các cuộc chiến quy mô nhỏ” gia tăng kể tăng kể từ năm 2011.

Đáng chú ý, đầu tháng ba vừa qua, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tuyên bố quân đội Trung Quốc cần chuẩn bị tốt hơn cho các "cuộc chiến tranh cục bộ".

Từ những dấu hiệu trên, hàng loạt các chuyên gia trong một bài phỏng vấn với Asia Times nhấn mạnh rằng tương lai, Trung Quốc có thể phát động các cuộc tấn công quân sự giới hạn.

Theo Steve Tsang, Giám đốc Viện chính sách Trung Quốc thuộc ĐH Nottingham, tin rằng Trung Quốc có thể khởi động một cuộc chiến bất thình lình và quy mô nhỏ nhằm vào Philippines và Việt Nam.

“Khởi động cuộc chiến chống lại Việt Nam chỉ làm an ninh ở Đông Nam Á và Đông Á bất ổn hơn. Trung Quốc không dễ chiến thắng Việt Nam. Dù vậy, họ rất có thể phát động một cuộc chiến như thế”, ông Steve Tsang nhấn mạnh.

Ông Tsang cảnh báo, tấn công Việt Nam hoặc Philippines sẽ đẩy các quốc gia ASEAN đến chỗ phải tìm đến Mỹ cầu viện.

Tuy nhiên, ông Tsang nhấn mạnh, Hàn Quốc sẽ không phải là mục tiêu bất chấp các cuộc chiến ngôn từ gần đây với Trung Quốc sau vụ một quan chức Viện Hải Dương học nước này tuyên bố bãi đá ngầm Ieodo chắc chắn là một phần lãnh hải thuộc quyền tài phán của Trung Quốc.

“Việc Trung Quốc tính chuyện triển khai hoạt động quân sự chống lại Hàn Quốc là quá nguy hiểm và không được bất cứ ai khoan dung. Mỹ có vai trò rất lớn ở đây và sẽ ngay lập tức gây áp lực lên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc để ra một lệnh ngừng bắn”, ông Tsang tuyên bố thêm.

Trong khi đó, James Holmes, một Phó Giáo sư nghiên cứu Chiến lược của Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ nhận định Bắc Kinh có thể sẽ thành công nếu tấn công Philippines.

“Bắc Kinh sẽ khởi động bất cứ cuộc chiến tranh quy mô nhỏ nào khi có thể. Sức mạnh quân sự vượt trội của họ dựa trên các loạt vũ khí như tên lửa đạn đạo chống hạm sẽ mang lại ưu thế cho Trung Quốc trong suốt cuộc chiến”, ông Holmes giải thích.

Như vậy, rất có thể trong tương lai, biển Đông sẽ lại dậy sóng bởi các cuộc tấn công bất thình lình và quy mô nhỏ của Trung Quốc.
nguon: baodatviet

macsuong

macsuong
,
,

3 “nhát dao” chặt đứt đường lưỡi bò
Việc thăm dò và vẽ lại bản đồ Biển Đông được phối hợp bởi 13 cơ quan, trong đó có cả Bộ Công an... nhằm tuyên bố lập trường của Trung Quốc về lãnh thổ diễn ra đồng thời với việc khủng bố ngư dân Việt Nam thể hiện thái độ gây hấn của Trung Quốc.


Zhang Yunling, Giám đốc Viện nghiên cứu quốc tế thuộc Học viện KHXH Trung Quốc vừa khẳng định việc thăm dò và vẽ lại bản đồ Biển Đông được phối hợp bởi 13 cơ quan, trong đó có cả Bộ Công an... nhằm tuyên bố lập trường của Trung Quốc về lãnh thổ diễn ra đồng thời với việc khủng bố ngư dân Việt Nam thể hiện thái độ gây hấn của Trung Quốc.

Về luật mà nói…

Chỉ nội cái việc chưa bao giờ dám thẳng thắn đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông ra tòa án quốc tế đã cho thấy Trung Quốc tự biết họ yếu thế như thế nào trong luận điểm về chủ quyền Biển Đông. Đã là “cây ngay” thì cớ gì phải sợ “chết đứng”?! Tất cả những gì có thể “nặn ra” để bảo vệ đường lưỡi bò đều là cưỡng từ đoạt ý. Như đã biết, Trung Quốc đã “quốc tế hóa” luận thuyết “đường lưỡi bò” vài năm gần đây.

Tháng 5/2009, Trung Quốc lần đầu tiên gửi kèm tấm bản đồ “đường lưỡi bò” trong lá thư đệ trình Ủy ban LHQ về ranh giới thềm lục địa (CLCS) với nội dung phản đối cách tính thềm lục địa của Việt Nam và Malaysia. Ý tưởng “đường lưỡi bò” xuất hiện năm 1947 khi Trung Hoa Dân Quốc đưa ra một bản đồ với 11 vạch uốn éo tạo thành hình chữ U bao bọc gần như trọn khu vực Biển Đông.

Sau khi tuyên bố độc lập năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiếp tục sử dụng bản đồ trên, với sự “giản lược” bớt hai vạch (còn 9 vạch) sau năm 1953. Từ đó, cái “hình minh họa” với “đường lưỡi bò” 9 vạch bắt đầu được xem là bản đồ chính thức của Trung Quốc trong tất cả cuộc tranh luận về phân định biên giới lãnh hải tại Biển Đông với các nước khu vực. Lý lẽ tối giản của “đường lưỡi bò” là những gì nằm bên trong nó, từ các hòn đảo đến “đảo liền kề” và “vùng biển liên quan”, đương nhiên phải thuộc Trung Quốc, dù những thuật từ trên chưa bao giờ được sử dụng trong Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS)!

Xét về mặt luật, luận điểm “đường lưỡi bò” hoàn toàn không có giá trị pháp lý quốc tế. Lori F. Damrosch, Giáo sư Công pháp quốc tế thuộc Đại học Columbia (Mỹ), đã vạch ra rằng những đảo nhỏ mà Trung Quốc đưa ra như là một phần của biên giới thực chất chỉ là “những cụm đá nhỏ lốm đốm”, và chúng không đủ lớn để có hải phận riêng. Và nhận định về “đường lưỡi bò”, một trong những chuyên gia luật hàng hải hàng đầu châu Âu, Giáo sư Erik Franckx thuộc Vrie Universiteit Brussel (Bỉ), kết luận (trong một cuộc hội thảo Biển Đông tại TP HCM) rằng, tấm bản đồ “đường lưỡi bò” hoàn toàn “thiếu cơ sở thuyết phục” và do đó nó sẽ “gây ra nhiều phiền toái nếu tiếp tục được xem như là một phần trong chính sách của Trung Quốc lẫn của Đài Loan”.





CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA 1_3b3f0
Bản đồ Việt Nam trong cuốn Từ điển Latinh – Việt Nam của Giám mục Jean Louis Taberd xuất bản năm 1838 vẽ một phần của “Paracel hay Cát Vàng” (Paracel seu Cát Vàng) vào khu vực quần đảo Hoàng Sa hiện nay (ảnh và chú giải: Ủy ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam)
Và trong cuộc hội thảo quốc tế về an ninh Biển Đông tại Washington DC giữa năm 2011, giới nghiên cứu quốc tế tiếp tục đập bẹp cái “lý thuyết chủ quyền” bằng luận điểm đường lưỡi bò cùng những “cơ sở lịch sử của nó”. Ông Termsak Chalermpalanupap, Giám đốc phụ trách chính trị và an ninh của Ban thư ký ASEAN, nói: “Tôi không cho rằng UNCLOS có thể xem lịch sử là cơ sở để tuyên bố chủ quyền”. Giáo sư Peter Dutton thuộc Đại học Hải quân Mỹ nhận định: “Về quyền tài phán đối với các vùng biển, lịch sử không liên quan gì cả, mà phải tuân theo UNCLOS”.

Rồi chuyên gia luật biển lừng danh Caitlyn Antrim, Giám đốc điều hành Ủy ban Pháp quyền đại dương Hoa Kỳ, bồi thêm: “Tôi không hiểu Trung Quốc tuyên bố cái gì trong đường lưỡi bò đó. Nếu họ tuyên bố chủ quyền với các đảo do đường ấy bao quanh thì câu hỏi đặt ra là họ có chứng minh được chủ quyền với các đảo đó hay không. Nếu Trung Quốc có tuyên bố chủ quyền với các đảo từ 500 năm trước, nhưng sau đó lại bỏ trống thì tuyên bố chủ quyền trở nên rất yếu. Đối với các đảo không có cư dân sinh sống thì họ chỉ có thể tuyên bố lãnh hải, chứ không thể tính vùng đặc quyền kinh tế từ các đảo đó”…

Quan trọng nhất trong tất cả những điều quan trọng khi đề cập yếu tố (thiếu) cơ sở pháp lý của Trung Quốc là cái đường lưỡi bò của họ chẳng có tọa độ cụ thể gì cả. Liệu họ có thể nói chuyện một cách đứng đắn và có tư cách khi tranh luận về ranh giới chủ quyền cái mảnh đất nhà họ với người láng giềng, trong khi chẳng hề đưa ra rõ ràng và chính xác lằn ranh phân định diện tích mảnh đất mà họ đang giành, có thể nghe được như thế không? Họ chỉ tự tiện vẽ khoắng một khu vực rồi ngang ngược ngông cuồng nói nó thuộc về họ, có thể được chấp nhận sao? Liệu họ có đủ can đảm ra tòa không?

Về lịch sử mà nói…

Cần nhấn mạnh, tấm bản đồ đường lưỡi bò năm 1947 (có tài liệu ghi năm 1948) của Tưởng Giới Thạch là nằm trong một tập bản đồ tư nhân chứ không phải do nhà nước xuất bản. Và cần nhấn mạnh thêm rằng, những tấm bản đồ phổ biến hiện nay có vẽ đường lưỡi bò và được trưng ra làm “cơ sở lịch sử” đều được Trung Quốc phát hành từ năm 1950 trở về sau, chứ chẳng phải bản đồ cổ được in lại. Nó cho thấy rõ ràng là ngay cả việc vận dụng yếu tố lịch sử chủ quyền của Trung Quốc đã có một lỗ hổng to.

Năm 1951, trong Hội nghị San Francisco, đại diện Việt Nam đã nêu rõ: “Về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tuyên bố của phái đoàn Việt Nam… xác nhận (rằng) chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. Chẳng quốc gia nào trong 51 nước tham dự Hội nghị San Francisco phản bác ý kiến trên. Là vì, chủ quyền Việt Nam đối với Trường Sa và Hoàng Sa đã quá rõ ràng.




CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA 210-477x623
Bản đồ Việt Nam thời Nguyễn khoảng năm 1838, đã vẽ “Hoàng Sa”, “Vạn lý Trường Sa” thuộc lãnh thổ Việt Nam, phía ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam (ảnh và chú giải: Ủy ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam)
Năm 1974, trong quyển Les archipels de Hoàng – Sa et de Trường – Sa selon les anciens ouvrages Vietnamiens d’ histoire et de géographie” (Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong thư tịch cổ của Việt Nam về lịch sử và địa lý – ảnh), nhà Nghiên cứu Võ Long Tê đã đưa ra nhiều tài liệu cổ, từ Thiên Nam tứ chi lộ đồ thư (có lẽ được soạn thời Chúa Trịnh); Phủ biên tạp lục của cụ Lê Quý Đôn, rồi Lịch triều Hiến Chương Loại chí của cụ Phan Huy Chú, Đại Nam thực lục chính biên, Khâm định đại nam hội điển sử lệ, Đại Nam nhất thống chí, đếnQuốc triều sử toát yếu… để chứng minh hùng hồn và xác thực rằng Hoàng Sa và Trường Sa (hai trong vô số quần đảo ở Biển Đông nằm trong cái đường lưỡi bò) là thuộc Việt Nam… Và trong luận án tiến sĩ đề tài chủ quyền Trường Sa – Hoàng Sa năm 2002, sử gia Nguyễn Nhã cũng nói rõ như sau:

Một là, nhà nước Việt Nam trong ba thế kỷ từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đã tổ chức đội Bắc Hải đi tìm kiến hải vật ở khu vực Bắc Hải tức khu vực quần đảo Trường Sa và cả Côn Đảo, Hà Tiên cũng ở phía Nam của Đại Việt. Phủ Biên Tạp Lục (1776) của Lê Quý Đôn và rồi Đại Nam Nhất Thống Chí (khởi soạn 1848, in năm 1910) của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn đều khẳng định: “Đội Bắc Hải, khiến đội Hoàng Sa kiêm quản, ra Bắc Hải, các đảo Côn Lôn tìm lấy hải vật”. Phủ Biên Tạp Lục, quyển 2 của Lê Quý Đôn còn cho biết thêm rằng, sở dĩ nhà nước sai chức cai đội Hoàng Sa kiêm quản đốc đội Bắc Hải này vì chẳng qua họ chỉ lấy được những hải vật kể trên mà thôi tức là những mặt hàng đồi mồi, hải ba, đôn ngư (cá heo lớn như con heo), lục quý ngư, hải sản (con đỉa biển), còn những vàng bạc và các của cải quý báu khác thì ít khi họ tìm kiếm được. Vậy là do đội Bắc Hải ít khi tìm kiếm được các sản vật quý trong đó có vàng bạc hay súng ống nên các chúa Nguyễn đã để cho cai đội Hoàng Sa kiêm quản (…).

Hai là, Trường Sa chịu sự quản lý hành chính của Quảng Ngãi. Bởi quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được coi là một. Tỉnh Bình Thuận chỉ cung cấp suất đinh cho đội Bắc Hải mà thôi. Mà chúng ta đã biết Hoàng Sa nằm trong cương vực, vùng biển của Quảng Ngãi, do Quảng Ngãi quản hạt. Đến năm 1933, quần đảo Trường Sa mới được tỉnh Bà Rịa (Nam Kỳ) quản lý về mặt hành chính. Năm 1956, tỉnh Bà Rịa được đổi tên là Phước Tuy (Nam Bộ). Năm 1982 lại do tỉnh Phú Khánh (Trung Bộ) quản lý và trở thành một huyện đảo.




CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA 39-477x380


Đây là một trong những bản đồ trong “Phủ Biên tạp lục” do cụ Lê Quý Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776. Lê Quý Đôn mô tả tỉ mỉ tình hình địa lý, tài nguyên ở Hoàng Sa – Trường Sa và công việc khai thác của Chúa Nguyễn đối với hai quần đảo này (ảnh và chú giải: Ủy ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam)
Ba là, những hoạt động liên tục, định kỳ của thủy quân từ đầu nhà Nguyễn, cụ thể bắt đầu từ năm 1816 tại quần đảo Hoàng Sa mà như ta đã biết thời kỳ này Hoàng Sa và Trường Sa là một. Đó là những việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ của thủy quân, việc cắm mốc chủ quyền, dựng bia thành lệ hàng năm đến từng hòn đảo được ghi trong sách Hội Điển triều Minh Mạng.

Bốn là, năm 1933 khi chưa có nước nào, kể cả Trung Quốc đặt vấn đề chủ quyền ở quần đảo Trường Sa, chính quyền Pháp ở Việt Nam đã tổ chức chiếm hữu theo nghi thức truyền thống phương Tây. Như thế, nhân danh Vương quốc An Nam theo Hiệp ước Pháp – Việt 1874 cũng như Hiệp ước 1884, chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam đã chính thức chiếm hữu Trường Sa trong tình trạng không có nước nào chiếm hữu (…). Điều cần nói thêm là, khi chính quyền thực dân Pháp tổ chức chiếm hữu theo nghi thức truyền thống phương Tây vào năm 1930 đến 1933, thì cũng chưa có một quốc gia thứ ba nào đặt vấn đề tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa (Spratley).

Năm là, ngoài sự sáp nhập Trường Sa về mặt hành chính của chính quyền thực dân Pháp vào cảng Bà Rịa – Vũng Tàu, đất Nam Kỳ theo Hiệp ước Pháp Việt 1862, 1874. Chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam đã có những hành động cụ thể như xây dựng bia chủ quyền, xây dựng trạm khí tượng, trạm vô tuyến ở đảo Itu – Aba cùng trại binh ở quần đảo Trường Sa. Suốt thời gian từ năm 1927 đến 1945, chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam đã thường xuyên tổ chức khảo sát hay khai thác ở quần đảo này.

Sáu là, các chính quyền ở Việt Nam có trách nhiệm quản lý vùng Biển Đông trong các thời kỳ chủ quyền bị xâm phạm cũng luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Trường Sa (…). Chúng ta cần lưu ý rằng, chế độ cai trị ở Nam Kỳ mà quần đảo Trường Sa được sáp nhập là chế độ thuộc địa, trực trị khác với chế độ bảo hộ ở miền Trung. Vì thế cung cách xử lý chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa của Pháp cũng khác với Hoàng Sa, ngoài việc nhân danh Vương quốc An Nam theo Hiệp định 1884, Pháp còn nhân danh chính quyền thực dân trực trị để chiếm hữu Trường Sa, nên đã làm thủ tục nghi thức truyền thống phương Tây. Song dù với danh nghĩa gì đi nữa thì việc sáp nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa, lãnh thổ của Việt Nam là một thực tế, đã có một giá trị pháp lý quốc tế trong khi chưa có một nước thứ ba nào chiếm hữu thực sự quần đảo Trường Sa.

Bảy là, từ sau tháng 4/1956, khi quân viễn chinh Pháp rút, các chính quyền ở Nam Việt Nam quản lý Trường Sa, luôn có những hành động bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Đến năm 1975, khi giải phóng miền Nam Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam đã tiếp quản, tiếp tục trấn giữ, thực thi chủ quyền của Việt Nam đã có từ lâu đời trên quần đảo Trường Sa. Mọi sự xâm chiếm bằng vũ lực của Trung Quốc cũng như các nước khác trong các thời kỳ đã qua cũng như hiện nay đều vi phạm pháp lý quốc tế.

Phần mình, Trung Quốc đưa ra bằng chứng gì? Một trong những bằng chứng của họ là dấu vết những đồng bạc và cổ vật Trung Quốc rải rác tại Hoàng Sa – Trường Sa (cũng như một số hòn đảo khác trong Biển Đông). Rõ quá còn gì, không có người Trung Quốc đặt chân đến sống thì làm sao có những đồng xu và vật dụng Trung Hoa ở đó! Quả thật là cực kỳ thuyết phục! Hảo lý, hảo lý! Thế, liệu các cuộc khảo cổ cũng tìm thấy đồng xu Pháp hoặc Tây Ban Nha tại Thượng Hải thì Thượng Hải thuộc chủ quyền Pháp và Tây Ban Nha à? Vậy liệu Hải Nam (Trung Quốc) khai quật được tiền xu cổ của người Việt thì nên chăng Việt Nam bây giờ cũng có thể “đương nhiên” khẳng định, với “chứng cứ lịch sử không thể chối cãi”, rằng Hải Nam là của Việt Nam?

Về tính chính danh mà nói…

Bởi lập luận của họ thiếu tính pháp lý và cũng chẳng đủ bằng chứng lịch sử nên cuối cùng cái sự nhăng cuội của họ đã làm họ mất đi cái tính chính danh. Mà đã không có tính chính danh thì không đáng mặt quân tử – văn hóa triết học Trung Hoa cổ đã chỉ ra như vậy. Xin nhớ cho rằng, “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận; ngôn bất thuận tắc sự bất thành”!

Theo Mạnh Kim
Petrotimes

macsuong

macsuong
,
,

Phát hiện thêm văn bản tế lính Hoàng Sa
Cập nhật lúc :8:35 AM, 25/08/2011
(Đất Việt)
Chiều 24.8, TS Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở VH-TT-DL tỉnh Quảng Ngãi
công bố việc tìm thấy một bài văn tế lính Hoàng Sa - Trường Sa ngay
trong đất liền. Nơi tìm thấy bài văn tế lính Hoàng Sa là tại nhà của gia
đình ông Diệp Văn Thang (88 tuổi; thôn Gia Hòa, xã Tịnh Long, huyện Sơn
Tịnh, Quảng Ngãi).


CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Van%20te%20linh%20hoang%20sa
Tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ (phải)
cùng ông Diệp Công Thang trước bản chép bài văn tế lính Hoàng Sa -
Trường Sa bằng giấy dó. Ảnh: Tuổi Trẻ
Bài văn tế có nội dung tri ân những người lính Hoàng Sa, khấn vái thiên
thần, nhiên thần, thủy thần phù hộ, độ trì cho các binh phu Hoàng Sa đi
làm nhiệm vụ trên vùng lãnh hải tổ quốc bình an vô sự.

“Điều đặc biệt là trước nay chúng ta cứ nghĩ lề khao lề thế lính Hoàng
Sa chỉ có ở đất đảo Lý Sơn, nhưng qua việc phát hiện bài văn tế này của
gia tộc họ Diệp đã khẳng định rằng, không chỉ ở Lý Sơn mới cúng tế thế
lính Hoàng Sa mà ngay trong đất liền, ở các vùng ven biển của tỉnh Quảng
Ngãi cũng có nghi thức lễ cúng tế và thế lính Hoàng Sa”, TS Vũ nói và
cho biết thêm, bài văn tế này đã được gia tộc của ông Diệp Văn Thang gìn
giữ và lưu truyền qua nhiều đời.

macsuong

macsuong
,
,

Lai lịch và thực chất của đường lưỡi bò phi lý
Cập nhật lúc :9:49 AM, 04/08/2011
Với chưa đến
1000 từ, một nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc thông
báo với dư luận những căn cứ để xác lập chủ quyền của Trung Quốc đối với
biển đảo trên gần 80% diện tích Biển Đông nhưng lại không trưng ra bất
kì bằng chứng thuyết phục gì, và vì thế, không có gì để tranh biện.

Bài
báo có nêu các bản đồ 12/1934, tháng 4/1935, 2/1948 nhưng chủ yếu là
muốn tuyên truyền tính chính danh, chính nghĩa cho bản đồ 11 đoạn hình
chữ U do Bộ Nội Chính Chính phủ Quốc dân đảng ấn hành 10/1947.

Tấm bản đồ đó trước đây ít người biết nhưng từ năm 2006 khi Trung
Quốc chính thức khẳng định ý nghĩa của nó, thì không chỉ ở Việt Nam mà
người dân ở các nước ĐNÁ và nhiều nước khác không khỏi ngạc nhiên trước
tham vọng của Trung Quốc muốn làm chủ đến 80% diện tích biển Đông.

Vì là vấn đề trung tâm được tác giả bài báo nêu lên, cho nên ở bài
này điểm lướt ngoại vi để đi thẳng vào vấn đề về tấm bản đồ lãnh hải
hình chữ U đó

Lai lịch tấm bản đồ tháng 10/1947

Để gây thanh thế cho bản đồ này, báo chí Trung Quốc có liên hệ đến
một nhân vật lịch sử khá có danh tiếng của Trung Quốc là tướng quân Lâm
Tắc Từ, một vị tướng của nhà Thanh, nổi tiếng trong chiến tranh Nha
phiến (1840-1843) chống thực dân Anh.

Ông này không ăn nhập gì với chuyện bản đồ lưỡi bò này nhưng người ta
nhắc đến tên ông trong vì ông có người cháu năm sáu đời gì đó là Lâm
Tuân (林遵) làm sĩ quan trong hải quân Chính phủ Quốc dân đảng.

Sau chiến tranh thế giới thứ II, Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch là một
nước trong phe Đồng minh thắng trận, hải quân của chính quyền Tưởng
phái chiến hạm mang tên Thái Bình do Lâm Tuân chỉ huy đi tuần sát biển
Nam xem có tàn dư quân Nhật hoặc nạn dân kẹt lại đâu đó hay không.

Chỉ làm được một vòng rất hạn hẹp, cho quân xuống cắm cờ ở một vài đảo
nhưng khi về căn cứ, Lâm Tuân cùng thuộc hạ là mấy chuyên viên quan
trắc, hoạ đồ xúm lại vẽ ra một tấm bản đồ gọi là (南海諸島位置圖) Nam Hải chư
đảo vị trí đồ (Bản đồ vị trí các đảo Nam Hải), chuyển cho Ti Phương vực
Bộ Nội Chính đem in xuất bản năm tháng 10/1947. Không những bản gốc hiện
được bảo quản cẩn mật mà cả bản ảnh điện tử của nó cũng hầu như rất ít
xuất hiện trên mạng của Trung Quốc.

Cái bản đồ bộ Nội chính in ra 10/1947 ấy chưa phát hành được bao
nhiêu thì thành đồ “vứt sọt rác”, khi chính quyền Tưởng Giới Thạch phải
chạy ra Đài Loan!

Biết bao sự kiện rất lớn diễn ra ở Trung Ðại lục địa, Đài Loan và cả ở
Việt Nam. Vấn đề biển Đông (mà TQ gọi là Nam Hải) nổi cộm và nóng dần
lên.

Khởi đầu là việc chính quyền Trung Quốc cho quân xâm lược Hoàng Sa của
Việt Nam vào 10/1974, kế đến là việc Trung Quốc đánh chiếm một số đảo
trong QĐ Trường Sa thuộc chủ quyền CHXHCNVN 10/1988.

Chính phủ VN nhiều lần tuyên bố Việt Nam có đầy đủ những căn cứ pháp lý
để xác định chủ quyền của Việt Nam ở các vùng biển đảo nói trên. Nhưng
phía Trung Quốc ngày càng lộ rõ tham vọng bá quyền, nhiều lần công bố
các tài liệu thư tịch cổ mà họ cho là gián tiếp hoặc trực tiếp xác nhận
chủ quyền của Trung Hoa ở Nam Hải, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa mà Trung Quốc đặt tên là Tây Sa và Nam Sa.

Thấy các bằng cứ từ trong các thư tịch cổ của mình không thuyết phục
được ai, nhà cầm quyền Bắc Kinh hướng sự chú ý vào các bản đồ.

Khác với nguồn thư tịch dù không mấy thuyết phục nhưng cũng còn có
cái tên để nêu lên, thể loại bản đồ cổ Trung Quốc rất vắng thiếu và hầu
như không có các cứ liệu ủng hộ cho lập trường bành trướng của họ đối
với biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa!

Lâm vào tình thế đó, thậm chí người ta thấy những bài viết bắt đầu lánh
dần vấn đề các cứ liệu thư tịch - bản đồ, mà chuyển dần sang chủ điểm
nói về một thứ “lãnh hải” rất kỳ quái mà họ gọi mà “lãnh hải chủ trương”
- nghĩa là lãnh hải (trên biển Đông) mà nhà cầm quyền Trung Quốc “chủ
trương” muốn có và cần phải có. Chẳng hạn một sĩ quan cao cấp (về hưu)
của TQ viết:

任何对领土、领海的主张都离不开以国力,国际话语权为后盾。”搁置争议、共同开发”这是我国的现阶段解决领土、领海等边界问题的方针之一。就我国现阶段的国力以及国际环境来说这个方针是最好的了。

“Bất cứ chủ trương nào đối với lãnh thổ, lãnh hải cũng không thể tách
rời khỏi sự hậu thuẫn của sức mạnh đất nước và quyền đối thoại quốc
tế”.

Cái gọi là “chủ trương lãnh thổ, lãnh hải” đó không gì khác hơn là cái
tham vọng bất chấp sự thật lịch sử của chủ nghĩa bá quyền Bắc Kinh trên
đất liền cũng như trên biển. Không chỉ đối với biển Đông, chẳng hạn đối
với Nhật Bản trong vấn đề Điếu Ngư (tức quần đảo Lưu Cầu, Nhật Bản gọi
là 尖閣諸島 Tiêm Các chư đảo/, Senkaku Shotō) phía Trung Quốc cũng ứng xử
theo kiểu “lãnh hải chủ trương” như vậy, khiến cho mâu thuẫn ở biển Hoa
Đông giữa Trung Quốc và Nhật Bản có xu hướng gia tăng.

Tư duy “lãnh thổ, lãnh hải chủ trương” được hiện thực hoá

Đang lúc kiểu lý luận “lãnh hải chủ trương” được “tập huấn” cho quán
triệt thì đâu đó lại loé lên hy vọng từ nguồn cứ liệu bản đồ. Không biết
ai đó bỗng dưng phát hiện ra còn giữ được tấm bản đồ do nhóm Lâm Tuân
vẽ hồi nào!

Họ phát hiện ra “cái hay nhất” ở bản đồ Lưỡi bò của nhóm Lâm Tuân là
khiến cho cái tư duy “chủ trương lãnh thổ” hay “lãnh thổ chủ tương” (mơ
tưởng) được loại hình hoá, giấy trắng mực đen hoá bằng bản đồ, chứ không
còn phải nói khơi khơi chung chung nữa!

Thế là bản đồ của chính quyền Quốc dân đảng ấn hành tháng 10/1947 suýt
bị vứt vào sọt rác được lôi ra giới thiệu trang trọng, ra sức tung hô,
coi đó là bằng chứng có giá trị duy nhất về chủ quyền lãnh hải của Đại
Hán từ xưa đến nay ...và cả mai sau nữa!!

Từ bằng chứng “mấy nghìn năm”, nay họ rút xuống chỉ cần cái bằng
chứng 64 năm ấy là quá đủ, không phải bàn thảo gì nữa! Chế độ Tưởng Giới
Thạch duy nhất cái bản đò Lưỡi bò đó được coi là “quốc bảo”, rất mực
được đề cao.

Từ năm 2006 Chính phủ TQ quy định tất cả bản đồ TQ đều phải thể hiện
đường lãnh hải chữ U đó. Những người nặng đầu óc sôvanh lớn tiếng:
“CHNDTH hoàn toàn kế thừa cái bản đồ [Lưỡi bò] ấy!

Chính phủ TQ không hô như thế nhưng như mọi người biết, ngày 6/5/2009 Bộ
Ngoại giao TQ trình lên LHQ tấm bàn đồ hình chữ U (tức bản đồ Lưỡi bò)
ấy tức là chính thức gắn cho văn bản ấy một tính chất quốc tế chứ không
còn là vấn đề tung hô trong nội bộ nữa!


Sự giải thích vá víu và con đường phá sản của bản đồ đường lưỡi bò

Như vậy, vấn đề lãnh hải hình lưỡi bò không còn là vấn đề riêng của
vài quốc gia mà trở thành vấn đề công khai của các nước ĐNÁ với Trung
Quốc. Một số nước khác như Mỹ, Nhật Bản cũng tuyên bố họ có quyền lợi
liên quan đến hoà bình và ổn định ở các tuyến hàng hải trên biển Đông.

Không những các nước ĐNÁ trực diện phê phán lãnh hải lưỡi bò của Trung
Quốc mà nhiều Chính phủ và chính khách quốc tế cũng bày tỏ sự nghi ngại
lớn đối với tham vọng của Trung Quốc ở vùng biển quan trọng này.

Gần đây TQ lại cho xuất hiện một vài cách giải thích mong làm cho một số nước như Mỹ, Nhật Bản yên lòng.

Bài đăng trên China Daily dẫn lời của Triệu Lý Hải đưa ra
khái niệm “sở hữu danh nghĩa” là một mưu toan khiến người ta hiểu rằng
Trung Quốc nhận quyền “sở hữu danh nghĩa “ như vậy, còn trên thực tế thì
các nước có thể không bị ảnh hưởng gì!

Hoặc điều đó “không có nghĩa là toàn bộ vùng biển trong đường này thuộc
về vùng nội thủy của Trung Quốc”, các nước qua đàm phán với Trung Quốc
vẫn có thể được Trung Quốc cho tự do đi lại trên một số tuyến hàng hải
nào đó theo quy định của Trung Quốc!

Chấp nhận sự giải thích mơ hồ đó có nghĩa là bất kể các nước ĐNÁ hay
các cường quốc hàng hải nào trên thế giới đang đựoc tự do đi lại trên
biển Đông đều bị đặt vào tình thế phải đàm phán với Trung Quốc mới có
thể tiếp tục được hưởng quyền tự do đi lại trên vùng biển quốc tế!

Tiềm lực kinh tế quân sự thì các nước khác nhau nhưng thế giới văn
minh ngày nay làm sao có thể chấp nhận những áp đặt hoang đường như vậy?
China Daily lẽ nào không nhận ra mức độ không tưởng của những luận điểm theo kiểu giải thích của Triệu Lý Hải được dẫn thuật hay sao?

Tham vọng “vô đáy” như vậy đối với chủ quyền ở biển Đông không những
bị dư luận thế giới phản đối, mà ngay ở trong nước những người Trung
Quốc có lương tri cũng cho rằng chủ trương lãnh hải hình chữ U (lưỡi bò)
ấy là không khả thi.

Có bài báo viết: nếu theo đó thì có những nơi ngươi dân nước họ “nhảy
xuống nước bơi một đoạn, ngẩng đầu lên là ra ngước ngoài rồi”! Hoặc có
người nói: “Đem lãnh hải đến đặt trước cửa nhà người ta như thế thì ai
người ta chịu?” v.v...

Bản đồ lãnh hải lưỡi bò chính thức tung ra đến nay cũng 5/6 năm dù
được đề cao hết mức nhưng xem ra tương lai của nó cũng không khác gì con
bệnh đến hồi di căn. Có những ý kiến cực đoan đề nghị Trung Quốc tuyên
bố thẳng, rằng không cần cái đường lưỡi bò ấy. Vẫn viên sĩ quan có bài
trên mạng Thiết huyết nêu:

国际政治遵循的是丛林法则,有理没理不重要,重要的是实力,美国能占住遥远的夏威夷,英国能占住阿根廷门口的马尔维纳斯群岛,我们当然也能占住南海,这就是持强凌弱,没什么不好意思的。

“Pháp luật mà chính trị quốc tế tuân theo là pháp luật rừng (tùng lâm
pháp tắc丛林法则), có lý không có lý không quan trọng, cái quan trọng nhất
là thực lực. Nước Mỹ có thể chiếm đóng Hawai xa xôi, nước Anh có thể
chiếm quần đảo Manvinas ở ngay cửa khẩu của Achentina, thì chúng ta [tức
Trung Quốc] cũng có thể chiếm biển Nam Hải! Đấy tức là kẻ mạnh lấn lướt
kẻ yếu, có điều gì là xấu hổ đâu!”

Loại ý kiến cực đoan như dẫn trên cố nhiên không phải là quan điểm
của Chính phủ Trung Quốc và chúng tôi chân thành tin rằng kiểu lý luận
thời trung cổ ấy không chỉ bây giờ mà mãi mãi không bao giờ là quan điểm
chính thống của nhân dân và Chính phủ Trung Quốc!

Trung Quốc là một nước lớn, một trong năm thành viên của HĐBA, chúng
tôi chân thành mong Chính phủ Trung Quốc cuối cùng sẽ nhận ra tính chất
phí lý của chủ trương lãnh hải đường lưỡi bò, cùng các nước ĐNÁ và các
nước có liên quan thực hiện các quy định theo Tuyên bố về cách ứng xử
các bên trên biển Đông (DOC), tiến đến Bộ quy tắc ứng xử biển Đông (COC)
giữa ASEAN và Trung Quốc, để cuối cùng giải quyết hoà bình các tranh
chấp biển đảo ở biển Đông phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật
biển 1982 (UNCLOS).


Theo VietnamWeek

ubuntu

avatar
.
.

Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ cổ nước ngoài (Bài 1)

Trong nhiều tài liệu của các tu sĩ đến truyền
giáo hoặc có đi qua lãnh thổ Việt Nam còn lưu lại đều khẳng định Hoàng
Sa, Trường Sa là của Việt Nam.


Bài 1: Chủ quyền qua tài liệu tôn giáo

1. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes đã xuất bản tại Roma nhiều sách bằng chữ quốc ngữ như Từ điển Việt - Bồ - La (1651), Giáo lý Giảng tám ngày (1651). Đặc biệt trong sách Regnũ Annam (1650, Vương quốc An Nam) đi kèm theo tấm bản đồ nước ta đầu tiên chú thích rõ ràng bằng chữ quốc ngữ.

Chúng tôi phỏng đoán Alexandre de Rhodes vẽ bản đồ này
theo mẫu An Nam quốc đồ (1490) thời Hồng Đức, vì để phía tây lên trên
và đại cương nét biển, sông, núi cũng tương tự. Ở ngoài khơi Quảng Ngãi
bản đồ Hồng Đức ghi rõ chữ Đại Hải (bằng Hán tự) còn bản đồ Đắc Lộ ghi thêm cù lao Ré (tức đảo Lý Sơn) và xa ngoài khơi là đảo Pulo Sisi ở đúng địa điểm Hoàng Sa. Như vậy Việt Nam đã làm chủ quần đảo Hoàng Sa ít nhất là từ cuối thế kỷ XVI rồi.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Bd1811_8b45c
An
Nam đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd ghi rõ bằng chữ quốc ngữ và âm
tiếng ta: Paracel seu Cát Vàng (đảo Paracel hay Cát Vàng).

2. Hòa thượng Thích Đại Sán
(1633-1704) là nhà sư Trung Hoa được chúa Minh - Nguyễn Phước Chu
(1691-1725) mời sang Đàng Trong thuyết pháp về đạo Phật trong hai năm
1694-1695. Khi về nước, hòa thượng đã viết sách Hải ngoại ký sự,
trong đó nói đến biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa: “Bãi cát rộng cả
trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể gọi là Vạn Lý
Trường Sa… Quảng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường… thời quốc vương trước,
hằng năm thuyền đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc, khí cụ của
các thuyền hư tấp vào”.

3. Năm 1701, đoàn giáo sĩ thừa sai sang Trung Hoa đã kể lại trong Các bức thư nêu gương sáng và giải tỏa tò mò
(Lettres edifiantes et curieuses) như sau: “Với luồng gió tốt, chúng
tôi xuống tàu và chẳng bảo lâu đã tới phía trên đảo Paracel. Paracel là một quần đảo thuộc đế quốc An Nam). Đó là những tảng đá rất đáng sợ rộng hơn 100 hải lý, một cơn gió lớn làm đắm tàu bất kỳ lúc nào”.

Quần đảo Paracel nằm dài gần bờ biển nước Cochinchine (Giao
Chỉ gần Trung Hoa), xưa gọi là nước An Nam. Tàu Amphitrite lần đầu đi
Trung Hoa tưởng là sẽ bị tử nạn nơi đây. Thủy thủ đoàn tưởng rằng chưa
đến nỗi khi họ thấy con tàu chúi mũi vào một bãi biển chỉ có bốn hay năm
sải nước mà thôi. Trong cơn nguy kịch đó họ nguyện cầu nếu qua khỏi họ
sẽ xây dựng một giáo đường trên mộ thánh Phanxicô Xavie tại đảo Sancian
(Tam Sơn). Họ được chấp nhận lời nguyền và thoát khỏi cơn nguy kịch như
một phép lạ. Để kỷ niệm sự cố này, các nhà địa lý và hàng hải lấy tên
tàu Amphitrite làm địa danh cho các đảo ở phía đông bắc Hoàng Sa mà ta
gọi là nhóm đảo Tuyên Đức.

4. Năm 1833, Giám mục Taberd cho ra sách với nhan đề: Vũ trụ, lịch sử và mô tả hết mọi dân tộc, cùng tôn giáo, phong tục tập quán.
Trong đó có đoạn mô tả rõ địa lý quần đảo Hoàng Sa: “Chúng tôi không đi
sâu kể hết các hải đảo chính thuộc chủ quyền nước Giao Chỉ gần Trung
Hoa (Cochinchine, quốc hiệu chính thức khi ấy đã là Việt Nam). Chúng tôi
chỉ xin lưu ý rằng từ 34 năm trước đây, quần đảo Paracels gọi là Cát
Vàng hay Hoàng Sa.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Bd18112_5a4d4
Bản đồ Vương quốc An Nam của Alexandre de Rhodes lần đầu tiên chú thích rõ ràng biển, đảo của Việt Nam bằng chữ quốc ngữ.

Một
khu vực rắc rối như mê hồn trận gồm nhiều đảo nhỏ và các bãi cát làm
cho các nhà hàng hải sợ hãi đã do người Việt Nam chiếm giữ
. Chúng
tôi đã không biết họ thiết lập một cơ sở nào chưa, song chắc chắn rằng
hoàng đế Gia Long đã quan tâm kết hợp thêm một cánh hoa nhỏ ấy vào vương
miện của mình, vì ông xét là thích hợp nên đích thân ra đảo thực hiện
chủ quyền năm 1816 và trân trọng trưng quốc kỳ Việt Nam”.

Năm 1838, Giám mục Taberd xuất bản tại Serampore (Ấn Độ) bộ từ điển đồ sộ Nam Việt Dương hiệp Tự vị (Dictionarium Anamitico Latinum). Trong đó có tấm bản đồ Việt Nam cỡ lớn (40 x 80 cm) ghi tên ba thứ tiếng Việt - Hán - Latin: An Nam Đại quốc họa đồ. Bên tay phải bản đồ, phía trên vĩ tuyến 16, Taberd ghi rõ: Paracel seu Cát Vàng (đảo Paracel hay Cát Vàng).

Taberd viết chữ quốc ngữ và âm tiếng ta chứ không gọi
Paracel là Hoàng Sa. Điều này càng khẳng định quần đảo Hoàng Sa và cả
quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, vì xưa kia địa danh
Paracel chỉ cả khối các đảo nhỏ và bãi cát suốt từ Bắc xuống Nam, mà Đại Nam Thống Nhất Toàn Đồ (thời Minh Mạng) gọi phần Bắc là Hoàng Sa và phần Nam là Vạn Lý Trường Sa.

* * *
Như vậy các nhà tu hành Tây phương cũng như Trung
Quốc rất khách quan, thấy sao nói vậy: Các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam!




Bản đồ cổ, chứng cứ quý giá để bảo vệ chủ quyền

Mới đây, Ngoại
trưởng Mỹ Hillary Cliton phát biểu: Các nước tranh chấp về chủ quyền
trên biển Đông cần giải thích tuyên bố chủ quyền theo Công ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển, đồng thời chứng minh các tuyên bố chủ quyền bằng
chứng cứ pháp lý. Và gần như đó cũng là quan điểm chung của các nước
trong khu vực Đông Nam Á.


Tân Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang cũng đã nói rõ: “Cơ sở lịch sử, pháp lý và quyền chiếm
hữu khai thác, sử dụng về mặt thực tế là ba mặt của vấn đề để xác lập
chủ quyền biển, đảo”.


Rõ ràng, chứng cứ
lịch sử, pháp lý là những cột trụ quan trọng để chứng minh cho các tuyên
bố chủ quyền của Việt Nam trước quốc tế và là cơ sở chứng lý hết sức
quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp có liên quan đến biển
Đông (trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa).


Đối chiếu vấn đề này
với những cống hiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, ta mới thấy hết
được giá trị to lớn rút ra từ những bản đồ cổ. Trong năm năm qua, ông
đã tập trung những ngày tháng còn lại của đời mình để nghiên cứu rất sâu
về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam qua hệ thống bản đồ cổ. Những tư
liệu quý báu mà ông thu thập được trong suốt cả cuộc đời mình đã không
phụ lòng người săn sóc chúng. Đối chiếu cả trăm bản đồ cổ của Việt Nam,
Trung Quốc và nhất là hàng trăm bản đồ cổ do những nhà hàng hải phương
Tây đương thời vẽ xuyên suốt từ thế kỷ XVI đến sau này, ông rút ra kết
luận: “Chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa đã
được thế giới khẳng định qua các đồ bản suốt từ 500 năm qua”.


Có thể nói kết luận
rút ra từ chứng cứ bản đồ mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu thực hiện là
những chứng cứ giá trị để Việt Nam đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển,
đảo.


Ông nói: “Muốn bảo
vệ chủ quyền quốc gia của mình, đầu tiên phải biết ta có chứng cứ gì đã,
thứ hai chứng cứ đó có chắc không. Từ đó mà truyền bá kiến thức ấy thật
sâu rộng đến tất cả đồng bào của mình, dư luận thế giới để tạo thành
một sự nhận thức rõ ràng, thống nhất về chủ quyền quốc gia của ta. Nghĩa
là biến kiến thức ấy thành sự đoàn kết, thành quyết tâm của toàn dân
tộc, thành thứ vũ khí sắc bén nhất để bảo vệ chủ quyền!”.


MINH CƯỜNG
HOÀNG SA, TRƯỜNG SA TRONG BẢN ĐỒ CỔ NƯỚC NGOÀI- BÀI 2:
Chủ quyền qua bản đồ cổ Tây phương

(PL)- Các bản đồ cổ Tây phương đều xác nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.





Với phương tiện cá nhân hạn chế, tôi
chỉ có thể sưu tầm hoặc tiếp cận được khoảng trên 100 bản đồ cổ của các
tác giả thuộc nhiều quốc gia Tây phương thực hiện mà nội dung có phần
diễn tả lãnh thổ và lãnh hải nước ta xưa. Đó là các tấm bản đồ rời và đa
phần in trong các sách chuyên khoa địa lý cổ. Tôi phỏng đoán thực tế có
hàng ngàn bản đồ cổ có nội dung tương tự chứ không phải ít. Tiếc rằng
chúng ta chưa có điều kiện thu gom hoặc sao chép để làm tài liệu.

Đất nước ta hiện hình trên các bản đồ Tây phương mới từ đầu thế kỷ XVI, tức cùng thời với châu Mỹ - tân thế giới.

Tóme Pires viết sách Suma Oriental cho biết năm 1523 mới khám phá ra bờ biển nước Giao Chỉ. Năm 1525, Diogo Ribiero vẽ bản đồ nước ta với biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (Pracel rồi Paracel)
(1). Các nhà hàng hải Bồ Đào Nha dùng người Mã Lai làm hướng đạo và
thông ngôn khi đi tìm đường từ eo biển Malacca tới Trung Quốc qua Việt
Nam. Do đó địa danh của ta được ghi lệch lạc bằng cả hai thứ tiếng Mã
Lai và Bồ Đào Nha. Thí dụ Cù Lao Chàm thì ghi là Pulo Compello, Giao Chỉ
thì ghi là Co Chi rồi tùy theo mỗi thứ tiếng mà ghi khác đi như Cau
Chy, Ca Chi, Cochin, vv… Thấy bên Ấn Độ có thị trấn cùng tên Cochin nên
họ bèn ghi đây là Cochin gần China, tức Cochinchina.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA 6-chot

Hai quần đảo Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam (vòng tròn đỏ) được ghi rõ trên Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1839.

Địa danh Cochinchina chỉ toàn quốc Đại Việt trên các
bản đồ cổ từ đầu đến cuối thế kỷ XVI. Từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ
XIX, địa danh này chỉ Đàng Trong còn Đàng Ngoài thì được chỉ bằng địa
danh Tumkin, Tonkin… (Đông Kinh). Dưới thời Pháp thuộc Cochinchine chỉ
Nam Kỳ, Annam chỉ Trung Kỳ và Tonkin chỉ Bắc Kỳ. Ngày nay, ít còn ai
quan tâm đến nguyên thủy của địa danh Cochinchine. Thậm chí có sách khảo
cứu còn cho địa danh này là từ Cô Sinh hay Cô Chín xinh mà ra!

Trên các bản đồ cổ Tây phương, địa danh Cochinchine
được ghi vào phần lãnh địa thay đổi về hành chính từng giai đoạn lịch sử
như vừa trình bày. Điều đáng lưu ý là
phần lãnh hải thì không có gì thay đổi: quần đảo Paracel (gồm cả Hoàng
Sa và Trường Sa) vẫn ở giữa biển Đông và bờ biển Paracel
(costa da Paracel) luôn được ghi ở khoảng đất liền Quảng Ngãi. Giữa quần đảo và bờ biển Paracel, nhiều bản đồ ghi là vịnh hay biển Cochinchine (tức thuộc Giao Chỉ).
Đến thế kỷ XIX mới có những bản đồ bỏ tên biển Cochichine và ghi tắt là
biển Chine (Mer de Chine, China sea). Không ngờ đến nay, sự ghi nhầm
này sinh ra tác hại lớn.

Hầu
hết các bản đồ cổ do người Tây phương vẽ từ thế kỷ XVI đều ghi quần đảo
Paracel (gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa) tương ứng với vị trí của Hoàng
Sa và Vạn Lý Trường Sa trên
Đại Nam nhất thống toàn đồ. Quần đảo ấy ở giữa biển Đông và bờ biển Paracel (costa da Paracel) luôn được ghi ở khoảng đất liền Quảng Ngãi (vòng tròn đỏ).

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA 6-box

Diogo Ribeiro, năm 1529

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA 6-box2

Livro da Marinharia, năm 1560

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA 6-box1

Lưu trữ ở La Haye, Hà Lan, 1658

Tôi tin tưởng rằng với tinh thần ca dao truyền thống
“thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”, dân tộc ta sẽ vượt qua
mọi trở ngại để giữ vững chủ quyền trên “rừng vàng biển bạc” của Tổ
quốc.


Tìm “hình hài” đất nước qua bản đồ

Một lần tôi hỏi nhà
nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu: “Vì sao bác mê bản đồ đến như thế?”, ông trả
lời vui rằng: “Tôi mong được đi du lịch khắp Tổ quốc mình nhưng vì
nhiều điều kiện khác nhau không thể đi hết chiều dài lịch sử, cũng như
không thể đi hết mọi nơi. Vì thế tôi đành đi du lịch bằng bản đồ vậy”.


Trong suốt 60 năm
qua, từ khi là một trí thức trẻ cho đến giờ đã là một lão nhân ngoài 90,
mái tóc bạc trắng chỉ còn phất phơ mấy sợi, ông chưa bao giờ ngừng nghỉ
khám phá “hình hài” của đất nước. Ông đi khắp những tiệm sách cũ ở Sài
Gòn, các kho lưu trữ, những thư viện trong nước, quốc tế, nhiều khi chỉ
là những tập sách báo mà người ta bỏ quên ở góc chợ… để tìm kiếm những
lưu dấu của Tổ quốc qua các thời đại. Ai muốn biết Việt Nam từ lúc sơ
khai nhất trên bản đồ thế giới như thế nào? Việt Nam đi qua bao biến
thiên của lịch sử ra sao? Từng thước đất, biên cương hải đảo của Tổ quốc
ta tới đâu? Căn nhà nhỏ với hàng ngàn tấm bản đồ của ông sẽ trả lời cho
bạn điều ấy.


Ông tâm sự: “Ngôn
ngữ của nét vẽ luôn thách thức và thu hút tôi. Tôi luôn có cảm giác đằng
sau những nét chi chít kia còn ẩn giấu nhiều giá trị chưa khám phá”. Có
bản đồ đến cả chục năm trời mới “cắt nghĩa” được nhưng ông chưa bao giờ
bỏ cuộc, như trường hợp so sánh Hồng Đức bản đồ với bản đồ của Đắc Lộ
(Alexandre de Rhodes). Ông bật niềm vui sướng khi thú vị phát hiện: Đắc
Lộ bắt chước cách vẽ của bản đồ Hồng Đức. Nhưng đây cũng là bản đồ đầu
tiên chú thích các địa danh Việt Nam bằng chữ quốc ngữ phiên âm Latin
(thay vì Hán tự như bản đồ đương thời của nước ta), trong đó có ghi rõ
những vùng biển, đảo thuộc Việt Nam (Cù Lao Ré - đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi
ngày nay và xa ngoài khơi là đảo Pulo Sisi ở đúng địa điểm Hoàng Sa…).


Ông đã miệt mài kiếm
tìm, góp nhặt từng nét giá trị từ các bản đồ để tạo nên cả một kho tàng
lịch sử - văn hóa - chủ quyền quốc gia của Việt Nam ở ngay tại nhà mình
- nơi ông đã dành tặng gần cả đời cho lịch sử nước nhà.


MINH CƯỜNG

Nhà nghiên cứu NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU

(1) P.Y. Maguin, Les Portugais sur les côtes du Việt Nam de du Campa.BEFEO. Paris, 1972, tr. 28

Theo Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu
Pháp luật TPHCM
nguồn dantri

macsuong

macsuong
,
,

Sự thật về công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Cập nhật lúc :6:00 PM, 20/07/2011
Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.




CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA 2011_172_12_anh2

Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ảnh: internet
Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ
quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết
sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn
toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế,
bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời.

Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những
hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ
quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam.

Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân
Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung
Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo
ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa của Việt Nam).

Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn
như sau:

"Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4
tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết
định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ
chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải
phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời
chào rất trân trọng”.

Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến
phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển
theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự
xung quanh eo biển Đài Loan.

Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về
Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên
vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia.

Bối cảnh xuất hiện công hàm

Từ đầu thế kỷ 20, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn
từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên
biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu
chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc
đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt
đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các
vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc.

Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như
tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc
đặt ra. Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ 20, Trung Quốc đã hình thành ý
định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ
thế kỷ 20 đã nằm trong chiến lược "lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng
mở rộng biên giới quốc gia trên biển.

Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry
S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn
cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với
hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch
liệt lên án.

Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn
công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các
nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.

Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng”
Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.

Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn
công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do
dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào
cuộc chiến này.

Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai.
Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn.
Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống
Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu
cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.

Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách” đối với Trung Quốc như đã nêu
trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa – Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh
em”.

Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh
thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải
phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của
Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt
Nam.

Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
– Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc
đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai
khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra
tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ
quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài
Loan.

Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa” của họ trên Biển
Đông nên đã "lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam vào bản tuyên bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất
phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các
quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao
tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong
việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến
quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong
hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7
của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.

Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện
rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền
của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thấu hiểu
quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia
luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam,
nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên.

Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải
ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ thị cho
các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc
tuyên bố.

Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề
cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo
nào như Trung Quốc đã nêu.

Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao
cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố
từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của
Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn
không có cơ sở pháp lý.

Việt Nam có chủ quyền không thể chối cãi với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách
về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời
và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong
phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của
tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng
động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần
đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu. Hiệp định Genève 1954, mà
Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản
trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn
trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ
của Việt Nam.

Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958
về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.

Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo
Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam
vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH).

Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại
hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958 của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có
nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp
quốc tế cho đến giai đoạn đó.

Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã vi
phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời
cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã
nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt
Nam.

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất
đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành
tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội
dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc
theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc
nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.

Trong khi đó, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Genève 1954,
đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như
bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này.

Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải
quân Việt Nam Cộng hòa chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay
Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974

Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển
nhiên là Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản
chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các
nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam.


Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ
hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực
là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung
Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc,
lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính
ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự
do.

Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông
không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì
ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung
Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.


Nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với
hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ
chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó
cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc
hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ
quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Về thuyết "estoppel”

Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.

Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài
Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ
ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.

Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel” để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.

Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những
lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết
"estoppel”. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có
thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt
hại cho quốc gia khác.

Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính:

(1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện
cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch;
(2) Quốc gia nại "estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những
lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào
đó, hoặc không hoạt động;
(3) Quốc gia nại "estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời
tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã
hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó;
(4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát
biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong
vùng Vịnh Maine”, bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại
Nicaragua”, bản án "Ngôi đền Preah Vihear”..

Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã
nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái
độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị
thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.

Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc
đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành
không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận
thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn
đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc.

Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới
ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố
tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ
âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt
trọn” Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm
phức tạp hoá tình hình”. Tag: Tranh chấp biển Đông
Theo Đại Đoàn Kết

macsuong

macsuong
,
,

Những diễn biến mới trên Biển Đông

DOC đã được ký với mong muốn có thể cung cấp nền tảng
cho sự ổn định lâu dài trong khu vực và thúc đẩy sự hiểu biết giữa các
nước liên quan. Biển Đông đã tương đối ổn định trong nửa thập kỷ qua.


Tuy nhiên, sẽ là ngây thơ nếu tin rằng nhờ DOC, các bên đã ngừng các
hoạt động làm phức tạp thêm tình hình. Theo DOC, các bên phải kiềm chế
các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tình hình hoặc khiến tranh chấp
leo thang và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định, trong đó có việc ngừng
mọi hành động đưa người đến sinh sống tại các đảo, bãi đá, bãi cát ngầm,
đảo thấp nhỏ và các địa hình khác vốn không có người sinh sống, và giải
quyết các bất đồng một cách mang tính xây dựng.

Tuy nhiên, Tuyên bố DOC không làm rõ những hoạt động nào có thể được
coi là phức tạp và leo thang tranh chấp. Các bên đòi chủ quyền tiếp tục
xây dựng nhiều công trình trong những nơi đang tranh chấp trên biển Đông
và tuyên bố các quy định tài phán đơn phương nhằm chứng tỏ chủ quyền
trong các khu vực tranh chấp.

Cách tiếp cận của Trung Quốc, trong vai trò nước mạnh nhất, trên biển
Đông xác định bản chất của tranh chấp. Từ năm 2007-2008, khi Bắc Kinh
sửa đổi chính sách đối với vấn đề biển Đông theo hướng quyết đoán hơn,
tình hình đã căng thẳng trở lại.

Tháng 12/2007, Trung Quốc đã xây dựng thành phố Tam Sa để quản lý
hành chính quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa (và bãi đá chìm dưới biển
Macclesfield Bank), gây sự phản đối chính thức và mạnh mẽ của Việt Nam
cũng như làm dấy lên các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh.

Tháng 1/2010, Trung Quốc đã quyết định thành lập các cơ quan chính
quyền địa phương trên quần đảo Hoàng Sa và phát triển ngành công nghiệp
du lịch tại đây, và hành động này đã bị Hà Nội lên án là vi phạm chủ
quyền của Việt Nam. Sau đó, Trung Quốc thông qua "Đại kế hoạch xây dựng
và phát triển đảo du lịch quốc tế Hải Nam 2010-2020", theo đó quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa sẽ được hợp nhất trong một tổ hợp đa chức năng
trên biển, các tuyến đường du lịch biển và trên không tới Hoàng Sa sẽ
được xúc tiến xây dựng, và khuyến khích người dân đăng ký sinh sống trên
quần đảo này.

Tháng 6/2010, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam (MOFA) đã lên án
kế hoạch của Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam và đi ngược lại
tinh thần của DOC. Bà nhắc lại điều khoản 5 của DOC: "Các bên cần kiềm
chế các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tình hình hoặc leo thang
tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định, trong đó có việc ngừng
mọi hành động đưa người đến sinh sống tại các quần đảo, bãi đá, bãi cát
ngầm, đảo thấp nhỏ và các hình thái địa chất khác vốn không có người
sinh sống, và giải quyết các bất đồng một cách mang tính xây dựng".

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Trung-Quoc-tap-tran-tren-bien-DongTin180.com001_1310696601Ảnh minh họa: Chinanews

Kể từ năm 1999, năm nào Trung Quốc cũng đơn phương tuyên bố cấm đánh
bắt trên biển Đông trong hai tháng Sáu và Bảy. Để thực thi yêu sách
quyền tài phán của mình trên biển Đông, Trung Quốc đã đưa nhiều tàu ngư
chính đến tuần tra các vùng biển đang tranh chấp. Năm 2006 và 2007, có
một số báo đưa tin về các sự cố của ngư dân Việt Nam bị bắt giữ hoặc bị
thương bởi các tàu tuần tra và tàu chiến Trung Quốc.

Trong năm 2009, các lực lượng của Trung Quốc liên tiếp bắt giữ tàu cá
Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa và đòi khoản tiền chuộc 10.000 USD đổi
lại việc thả các ngư dân này. Đầu tháng 4/2010, Bắc Kinh thậm chí thông
báo cử hai tàu tuần tra lớn đến quần đảo Trường Sa để bảo về các tàu cá
Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên việc này được tiến hành ngoài thời gian
nước này đơn phương ban bố lệnh cấm đánh bắt trên biển.

Thỉnh thoảng Trung Quốc cũng tiến hành tập trận tại các khu vực đang
tranh chấp nhằm gửi đi những dấu hiệu răn đe các nước đòi chủ quyền khác
trên biển Đông. Mức độ thường xuyên và sự kết hợp các cuộc tập trận của
Trung Quốc đã gia tăng đáng kể những năm gần đây.

Đối với việc phát triển năng lượng, Trung Quốc và các nước ASEAN đã
tích cực thu hút các công ty quốc tế đến khai thác các nguồn năng lượng
tại các vùng biển mình đòi chủ quyền nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế
nhanh chóng trong nước. Thỉnh thoảng, khi các công ty năng lượng quốc
tế tiến hành khai thác tại các khu vực của nước này nhưng bị nước khác
coi là chủ quyền, đặc biệt trong khu vực đường chữ U của Trung Quốc, thì
hoạt động này bị đình trệ vì các phản đối ngoại giao và thậm chí cả sự
can thiệp của các tàu quân sự hoặc bán quân sự.

Đầu mùa hè năm 2007, Trung Quốc đã đề nghị một số công ty dầu và khí
đốt nước ngoài ngừng khai thác với các đối tác Việt Nam trên biển Đông,
bằng không sẽ phải chịu hậu quả trong công việc kinh doanh với Trung
Quốc. Tháng 4/2007, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc phản đối
việc Việt Nam nhượng quyền và hợp tác với tập đoàn Dầu lửa Anh xây dựng
một đường ống dẫn khí đốt gần bờ biển phía Nam Việt Nam, mà Trung Quốc
coi là "khu vực biển gần kề" với quần đảo Trường Sa.

Trung Quốc sẵn sàng trở lại đòi hỏi lịch sử rất mập mờ về mặt pháp lý
của mình để đòi chủ quyền với hầu hết diện tích biển Đông. Người phát
ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói: "mọi hành động đơn phương
của bất cứ bên nào tại các vùng biển này đều bị coi là sự xâm phạm chủ
quyền, quyền lãnh hải và quyền tài phán của Trung Quốc". Việt Nam khẳng
định rằng khu vực nằm trong dự án với BP thuộc vùng đặc quyền kinh tế
(EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam. Mọi hoạt động kiểm soát, quản lý đều
phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, đặc biệt là UNCLOS và tinh
thần của DOC.

Mùa xuân năm 2007, dưới sức ép của Trung Quốc, BP đã ngừng các hoạt
động khai thác tại các mỏ khí đốt Mộc Tinh và Hải Thạch thuộc thềm lục
địa của Việt Nam. Năm 2008, báo chí đưa tin tập đoàn năng lượng Mỹ Exxon
Mobil cũng bị Trung Quốc đe dọa.

Từ năm 2007-2010, Trung Quốc thường xuyên phản đối các hoạt động
khai thác của các công ty năng lượng nước ngoài, trong đó có BP ở khu
117; PGS (của Na Uy) ở khu 122; Chevron (của Mỹ) ở khu 122; Pogo (của
Mỹ) ở khu 124; ONGC (của Ấn Độ) ở khu 127; Indemisu (của Nhật Bản) ở khu
04-3; CoconoPhilips (Mỹ) ở khu 133; Pearl Energy (Mỹ) ở khu 06-1; Knoc
(Hàn Quốc) ở khu 11-4; và Gazprom (Nga) ở các khu 111 và 113.

Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định trong trường
hợp của Exxon Mobile, "các khu này hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt
Nam và phù hợp với Công ước của LHQ về luật biển" và "Việt Nam sẽ đảm
bảo mọi lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài khi hoạt động tại
Việt Nam". Việt Nam "hoan nghênh và sẽ tạo điều kiện hợp tác với các
đối tác nước ngoài, trong đó có cả các nhà đầu tư Trung Quốc đang hoạt
động tại Việt Nam, trên cơ sở tôn trọng đầy đủ chủ quyền của chúng tôi".

Năm 2009, Trung Quốc cũng phản đối việc Philippines khoan dầu ở khu
vực Bãi Cỏ rong (Reed Bank), cách Palawan 60 hải lý về phía Tây, nơi có
thể chứa 96 triệu mét khối khí và 450 triệu thùng dầu. Malaysia và
Brunei cũng tranh chấp về khai thác một mỏ khí đốt tại một khu vực mà
các đòi hỏi của hai bên chồng lấn nhau. Nhiều công ty khác nhau được
giao cho những khu như nhau: Malaysia trao quyền khai thác cho Murphy
Oil, trong khi Brunei trao quyền tương tự cho Royal Dutch Shell và
Total.

Về phía Trung Quốc, nước này rất cần nguồn tài nguyên biển, đặc biệt
là năng lượng, để phục vụ nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng của
mình. Trung Quốc từ năm 1993 đã là nhà nhập khẩu dầu. Theo ông Zhu
Jianjun, thuộc Công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC), nếu như năm
2010, 50% nhu cầu về dầu của nước này phụ thuộc vào nhập khẩu, thì đến
năm 2020 con số này sẽ là 60%. Vì vậy, việc đảm bảo một nguồn cung bền
vững và đảm bảo an toàn các tuyến đường vận chuyển đóng một vai trò
quyết định trong việc duy trì sự phát triển kinh tế bền vững của Trung
Quốc.

Biển Đông được một số chuyên gia phân tích của Trung Quốc mô tả là
vựa dầu, khí và nhiên liệu hóa thạch khổng lồ. Họ ước tính trữ lượng dầu
vào khoảng 23-30 triệu tấn, tương đương 1/3 tổng nguồn tài nguyên dầu
khí của Trung Quốc.

Ông Zhang Dawei, thuộc Bộ Tài nguyên Đất, cho rằng biển Đông sẽ trở
thành một trong 10 địa điểm khai thác dầu khí chính của Trung Quốc: trữ
lượng dầu ước đạt 23-30 triệu tấn hoặc 168-220 triệu thùng. Cũng như với
dầu mỏ, ước tính trữ lượng khí tự nhiên ở biển Đông cũng rất lớn. Một
ước tính của Trung Quốc cho thấy toàn bộ khu vực này có trữ lượng hơn 50
nghìn tỷ mét khối khí. Một báo cáo khác của Trung Quốc ước tính 225
triệu thùng dầu riêng ở quần đảo Trường Sa.

Tháng 4/2006, Husky Energy cùng với Tập đoàn Dầu khí hải ngoại của
Trung Quốc thông báo phát hiện một túi khí tự nhiên gần quần đảo Trường
Sa, có trữ lượng khoảng 186 triệu mét khối. Năm 2007, Bắc Kinh đã mời
thầu 22 khu mỏ dầu ở biển Đông nằm trong các khu vực cách đảo Hải Nam
hơn 1.000 hải lý. Các hoạt động mới đây diễn ra tháng 5/2010, khi Trung
Quốc cử tàu thăm dò địa chất M/V Western Spirit đến nghiên cứu
địa chất ở vùng biển quanh đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, trong
khu vực chồng lấn với các khu đang khai thác dầu khí 141, 142 và 143 của
Việt Nam. Đồng thời, Trung Quốc tiến hành các hoạt động san nền trên
đảo Tri Tôn để chuẩn bị cho xây dựng. Ngày 5/8, Chính phủ Việt Nam đã
chính thức phản đối và đề nghị lập tức ngừng các hoạt động này.

Trung Quốc xúc tiến các ý tưởng khai thác chung nguồn năng lượng trên
biển Đông nhưng lại phản đối các hoạt động khai thác năng lượng của các
nước khác trong khu vực hình chữ U (hay còn gọi là đường lưỡi bò) mà
Trung Quốc đòi chủ quyền. Về nguyên tắc, các nước đòi chủ quyền khác
không phản đối đề xuất khai thác chung của Trung Quốc, song việc xác
định các khu vực mà các bên chấp nhận là thực sự đang có tranh chấp vẫn
là khó khăn lớn nhất để đưa những ý tưởng này thành hiện thực. Các nước
này không chấp nhận đề xuất của Trung Quốc tiến hành khai thác chung tại
các khu vực nằm trong yêu sách đường lưỡi bò bao trùm cả những địa điểm
cách đảo Hải Nam đến 700 hải lý và nằm trong vùng EEZ rộng 200 hải lý
của các nước đòi chủ quyền khác.

Trong trường hợp Thỏa thuận Thăm dò địa chất chung trên biển Đông năm
2005 ký giữa các tập đoàn dầu lửa quốc gia của Trung Quốc, Philippines
và Việt Nam, Philippines đã không gia hạn thêm văn bản này vì vấp phải
sự phản đối trong nước, lên án chính phủ cho phép khu vực khai thác
chung ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này.

Hồ sơ đệ trình đăng ký thềm lục địa mở rộng

Căng thẳng về thềm lục địa biển Đông cũng không phải là không có liên
quan đến các diễn biến tại biển Đông trong 2-3 năm qua, xung quanh thời
hạn 13/5/2009. Một thỏa thuận của các nước ký kết UNCLOS đã ra hạn chót
là ngày 13/5/2009 để các nước đăng ký thềm lục địa mở rộng, nằm ngoài
giới hạn 200 hải lý theo quy định của Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa
(CLCS) của Liên hợp quốc.

Ngày 6/5/2009, Malaysia và Việt Nam đã trình một hồ sơ chung lên CLCS
đối với một khu vực đáy biển ở biển Đông nằm ngoài giới hạn 200 hải lý
EEZ của mỗi nước. Ngày sau đó, Việt Nam đã trình một hồ sơ khác liên
quan đến phần phía Bắc biển Đông. Trung Quốc lập tức gửi công hàm phản
đối cả hai bản trình, coi đó là vi phạm chủ quyền của mình và đề nghị Ủy
ban của LHQ bác bỏ các hồ sơ này. Sau gần 3 tháng, ngày 4/8/2009,
Philippines cũng gửi công hàm phản đối các bản đệ trình lên CLCS của
Việt Nam và Malaysia. Hai nước này cũng lập tức phản đối các công hàm
của Trung Quốc và Philippines.

Trung Quốc cũng trình lên CLCS một tài liệu sơ bộ liên quan đến biển
Hoa Đông, trong đó tuyên bố rằng Trung Quốc bảo lưu quyền đăng ký thềm
lục địa ngoài giới hạn 200 hải lý tại "các khu vực biển khác", có thể ý
muốn nói đến các khu vực biển Đông.

Philippines cũng đã trình một hồ sơ chưa đầy đủ về các khu vực thềm
lục địa nằm ngoài giới hạn 200 hải lý của EEZ ở khu vực Rãnh Benham trên
biển Philippines. Tuy nhiên, nước này đã bảo lưu quyền đăng ký thêm đối
với "các khu vực khác chưa xác định" trong tương lai. Các diễn biến
xung quanh các hồ sơ đệ trình của các nước liên quan đã có một số tác
động đến tình hình biển Đông nói chung, và đối với các hoạt động hợp tác
nói riêng.

Các hồ sơ trình CLCS của Malaysia và Việt Nam đã làm rõ các ranh giới
yêu sách về thềm lục địa của mình tính từ đường cơ sở. Hơn nữa, dường
như Việt Nam và Malaysia không coi bất cứ hình thái địa chất nào trong
quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa trong trường hợp hồ sơ trình của Việt
Nam) là được mang quy chế đảo quy định trong điều 121 của UNCLOS. Nếu
bất cứ đảo nào ở biển Đông đều có thể đi kèm với các quyền thềm lục địa
và EEZ, thì không có khu vực thềm lục địa mở rộng để đệ trình lên CLCS.
Việc Việt Nam không bình luận gì về thỏa thuận giữa Chính phủ
Philippines và Energy Forum trong lưu vực Bãi Cỏ rong đã khẳng định lại
cách nghĩ trên của Việt Nam.

Nếu sự rõ ràng trong yêu sách của Việt Nam và Malaysia liên quan đến
các đảo tranh chấp nói trên được các bên ở biển Đông thông qua, nó sẽ
đơn giản hóa đáng kể toàn bộ tranh chấp bằng cách thu hẹp căn bản các
yêu sách biển gắn với các đảo đang tranh chấp. Sẽ có thể có hẳn một khu
vực ở trung tâm biển Đông được coi là "chiếc bánh thềm lục địa" nằm
ngoài giới hạn của thềm lục địa tính từ đảo gần nhất hoặc từ đất liền
của các nước xung quanh biển Đông, mở cánh cửa hợp tác khai thác tài
nguyên biển.

Cách hiểu đơn giản hóa và hướng tới giải pháp cho tranh chấp của Việt
Nam và Malaysia về "quy chế của các hình thái địa chất" thuộc quần đảo
Trường Sa như trên được các nước xung quanh biển Đông đồng tình, trừ
Trung Quốc. Trong tài liệu phản đối hồ sơ đệ trình của Việt Nam và
Malaysia, Trung Quốc khẳng định "chủ quyền không thể tranh cãi của mình
đối với các đảo ở biển Đông và các vùng nước tiếp giáp, và quyền chủ
quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như thềm
lục địa và tầng đất cái của nó".

Đính kèm với hồ sơ của Trung Quốc là một bản đồ mô tả yêu sách đường
lưỡi bò gồm 9 đoạn, bao trùm gần hết diện tích biển Đông. Điều này có
nghĩa là Trung Quốc sử dụng một yêu sách thay thế, bên cạnh yêu sách
lịch sử của họ, dựa trên một thềm lục địa và EEZ từ các đảo nhỏ của quần
đảo Trường Sa mà họ cũng đòi là của mình. Gần đây nhất, trong công hàm
gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc đáp lại công hàm của Philippines phản đối
đường lưỡi bò, Trung Quốc đã lần đầu tiên tuyên bố công khai và chính
thức rằng "quần đảo Nam Sa của Trung Quốc có đầy đủ lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa".

Cần phải nói rõ rằng quan điểm của Chính phủ Trung Quốc về "quy chế
quần đảo" trên biển Đông đi ngược lại với quan điểm của chính nước này
đối với quy chế đảo Oki-no-Tori Shima của Nhật Bản, coi đây là một vỉa
đá ngầm nhỏ và biệt lập có nhiều đặc điểm chung với các hình thái địa
chất của quần đảo Trường Sa và nằm gần trung tâm khu vực biển
Philippines ở Tây Thái Bình Dương. Trong công hàm của Trung Quốc gửi
Tổng thư ký LHQ phản đối hồ sơ đệ trình của Nhật Bản về thềm lục địa 200
hải lý tính từ đường cơ sở là đảo Oki-ni-Tori Shima và thềm lục địa mở
rộng bên ngoài 200 hải lý, Trung Quốc nói rằng "cái được gọi là đảo
Oki-ni-Tori Shima trên thực tế là một bãi đá theo quy định trong điều
121(3) của Công ước".

Về quan điểm của Philippines, trong quá trình chuẩn bị hồ sơ về thềm
lục địa mở rộng, Philippines đã thông qua luật Đường cơ sở Quần đảo vào
ngày 10/3/2009, trong đó sửa đổi đường cơ sở thẳng hiện hành cho phù hợp
với các quy định đường cơ sở quần đảo ghi trong UNCLOS. Theo luật mới,
nhóm quần đảo Kalayan và Scarborough Shoal vẫn là một phần của lãnh thổ
Philippines nhưng có "quy chế quần đảo".

Tháng 8/2009, trong các công hàm ngoại giao phản đối hồ sơ của Việt
Nam và hồ sơ chung của Việt Nam và Malaysia gửi CLCS, Philippines không
nhắc đến bất kỳ thềm lục địa nào phát sinh từ quần đảo Kalayan đang
tranh chấp, nhưng nói rằng "hồ sơ về thềm lục địa mở rộng của Việt Nam
nằm trong các khu vực đang tranh chấp vì nó chồng lấn với các khu vực
của Philippines" (thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lý tính từ
đường cơ sở quần đảo) và "hồ sơ chung về thềm lục địa mở rộng của Việt
Nam và Malaysia nằm trong các khu vực đang tranh chấp không chỉ vì nó
chồng lấn lên thềm lục địa mở rộng của Philippines, mà còn vì tranh chấp
liên quan đến các đòi hỏi chủ quyền của một số quần đảo trong khu vực,
trong đó có Bắc Borneo".

Có thể hiểu rằng điều đó có nghĩa là Philippines không coi bất kỳ hình thái địa chất nào trên quần đảo Trường Sa là đảo
theo quy định trong điều 121 của UNCLOS. Như vậy các hình thái địa chất
này không thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Liên quan đến quan điểm của Indonesia, trong một văn bản lưu hành tại
LHQ ngày 8/7/2010, nhằm phản đối bản đồ yêu sách 9 đoạn đính kèm với hồ
sơ của Trung Quốc nói trên, Indonesia cho rằng "những hình thái địa
chất rất nhỏ và xa xôi này trên biển Đông không xứng đáng hưởng vùng đặc
quyền kinh tế hay thềm lục địa riêng ", và "cái gọi là bản đồ 9 đoạn
đứt... thực sự thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và như thể nhằm đảo lộn
UNCLOS 1982".

Brunei cũng dường như chia sẻ quan điểm của các nước liên quan trong
ASEAN. Trong tài liệu sơ bộ về thềm lục địa mở rộng trình CLCS ngày
12/5/2009, Brunei cho biết đã đạt tiến bộ đáng kể hướng tới việc chuẩn
bị một hồ sơ đầy đủ, nhưng chỉ có thể cung cấp hồ sơ này sau ngày
13/5/2009. "Hồ sơ đầy đủ của Brunei gửi ủy ban sẽ chứng tỏ rằng mép
ngoài của thềm lục địa, nằm ở vùng chuyển giao giữa Dangerous Grounds và
lòng biển sâu ở biển Đông, thuộc khu vực 200 hải lý tính từ đường cơ sở
được dùng để tính lãnh hải của Brunei. Điều này có thể được hiểu là
Brunei sẽ xác định thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lý mà không
tính đến các đảo mà họ đang đòi chủ quyền thuộc quần đảo Trường Sa.

Còn tiếp...nguồn baomoi.com

ubuntu

avatar
.
.

Học giả Đài Loan xâm phạm đảo Ba Bình của Việt Nam
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Truong-sa
Chiến sĩ hải quân Việt Nam ở Trường Sa. Ảnh: Nguyễn Hưng.
14 người Đài Loan, được tàu thuyền lực lượng hải quân
của hòn đảo chuyên chở, đã ra đảo Ba Bình trên quần đảo Trường Sa thuộc
chủ quyền Việt Nam.

Việc này diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng ở Biển Đông xung quanh các tuyên bố chủ quyền vùng nước và các đảo trong
quần đảo Trường Sa.

Đảo Ba Bình được cho là đảo lớn nhất ở Trường Sa, quần
đảo mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền với đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ
sở pháp lý.

Trong những tháng gần đây, bầu không khí ở Biển Đông
có sự căng thẳng do những lời tố cáo qua lại về tình trạng xâm phạm chủ
quyền các vùng nước gần Trường Sa. Các bên có tuyên bố chủ quyền ở Biển
Đông hiện nay, ngoài Việt Nam, còn có Trung Quốc (bao gồm Đài Loan),
Philippines, Malaysia và Brunei.

Nhóm người nói trên thuộc học viện hải dương học Đài
Loan, đã có chuyến đi kéo dài một tuần tới đảo Ba Bình, giới chức quân
sự Đài Loan cho biết hôm nay.

AFP dẫn thông báo của
giới chức trên, cho biết nhóm này đã gặp gỡ người đứng đầu chính quyền
Đài Loan Mã Anh Cửu ngay sau chuyến đi. Trước đó giới quân sự của Đài
Loan còn nói họ đang cân nhắc việc tăng quân lực và đưa các tàu thuyền
có tên lửa đến Ba Bình.
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Ba-binh-3
Đảo Ba Bình nhìn từ vệ tinh. Ảnh: Google Map.
Hồi tháng ba năm nay, Việt Nam đã lên tiếng phản đối
sau khi Đài Loan cho tập trận bắn pháo trên đảo Ba Bình. Tháng 2/2008,
người đứng đầu chính quyền Đài Loan khi đó là ông Trần Thủy Biển đã ra
đảo Ba Bình. Những việc làm này "là sự vi phạm nghiêm trọng chủ quyền
biển đảo của Việt Nam và gây căng thẳng trong khu vực", người phát ngôn
ngoại giao Nguyễn Phương Nga phát biểu.

Theo từ điển phổ thông mạng, đảo Ba Bình hình elip, có
chiều dài 1,4 km và chiều rộng 0,4 km. Năm 2007, Việt Nam cũng đã kịch
liệt phản đối khi Đài Loan xây dựng một đường băng sân bay trên đảo này.

Tại hội nghị cấp bộ trưởng của Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á diễn ra tuần này, dự kiến vấn đề tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông sẽ được đưa ra thảo luận. Theo những dự thảo tuyên bố của hội
nghị, cũng như diễn đàn an ninh khu vực sẽ diễn ra ngay sau đó tại
Indonesia, các quan chức sẽ kêu gọi ngoại giao phòng ngừa để loại bỏ
nguy cơ xung đột ở khu vực có tầm quan trọng chiến lược và giàu tài
nguyên này.
vnexp

macsuong

macsuong
,
,

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90811_9_18_18 Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (Ảnh: Pháp luật TPHCM)

TQ nguỵ tạo chủ quyền biển Đông: Còn nhiều tài liệu Việt Nam chưa đưa ra

Hơn nửa thế kỷ nghiên cứ địa lý và lịch sử, nhà nghiên cứ Nguyễn Đình
Đầu có một bộ sưu tập bản đồ Việt Nam lên tới hàng nghìn tấm. Những tài
liệu này giúp giải mã rất nhiều vấn đề về lịch sử, địa lý Việt Nam.
Trước những tuyên bố trắng trợn của Trung Quốc về đường lưỡi bò và chủ
quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, PV báo Giáo
dục Việt Nam đã có buổi phỏng vấn học giả nổi tiếng này.


Hành động sai với công pháp quốc tế

PV:
Được biết, ông là người có rất nhiều bản đồ cổ - là kho tư liệu quý để
xác định chủ quyền Việt Nam. Ông đánh giá thế nào về hành vi gây hấn của
tàu Trung Quốc?


Ông Nguyễn Đình Đầu: Các tàu di thăm
dò dầu khí của Việt Nam hoạt động trong phạm vi chủ quyền của Việt Nam.
Công ước quốc tế về Luật Biển 1982 đã quy định rất rõ ràng như thế.

Tôi
không hiểu tại sao Trung Quốc lại không tôn trọng luật pháp Quốc tế như
thế. Hiện nay có thể nói, Trung Quốc là một siêu cường trên thế giới
nhưng cách hành xử của họ thật đáng ngại. Thứ nhất đó là hành động sai
với công pháp Quốc tế.

Thứ hai, Việt Nam với Trung Quốc là hai
nước láng giềng từ xưa tới nay. Tuy có những sự va chạm nhỏ nhưng có thể
coi là hai nước thân thiết với nhau. Việc tàu Trung Quốc lại có những
hành động xâm phậm nghiêm trọng chủ quyền, tài sản của Việt Nam như vậy
làm tôi rất ngạc nhiên.

Tôi là người có nghiên cứu về văn hóa
cổ, tôi rất kính trọng Trung Quốc. Trước cái hôm tàu Trung Quốc gây hấn
lần thứ 2, buổi chiều tối ngày 4/6, khi chứng kiến một vận động viên
nước bạn giành cúp vô địch thế giới về quần vợt, tôi đã rất thán phục và
muốn chia sẻ niềm vui ấy với dân tộc Trung Quốc.

Nhưng chuyện một nước siêu cường về mọi phương diện như thế mà lại có hành động như vậy thì tôi nghĩ là không xứng tầm.

PV:
Với những tấm bản đồ trong tay, ông nhận định như thế nào về tuyên bố
chủ quyền của Trung Quốc tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa?


Ông Nguyễn Đình Đầu: Thứ
nhất, những bản đồ cổ không những của Tây phương và thậm chí những bản
đồ từ thế kỷ 15 của chính Trung Quốc đều nói là biển Giao Chỉ tức là
biển của Việt Nam. Đến thế kỷ XIX và XX, họ mới bắt đầu gọi là Đông
dương tức là Biển Đông.

Bao năm qua, một luồng quan điểm lớn ở
Trung Quốc đã cố tình gây ra sự hiểu nhầm khi lợi dụng tên gọi biển Nam
Trung Hoa (do người phương Tây gọi) để phán rằng biển của Trung Quốc bao
chiếm gần như toàn bộ biển Đông.

Thế nhưng sự thật khoa học cho
thấy tên gọi biển Nam Trung Hoa (chỉ biển Đông) mà Trung Quốc lợi dụng
để gây ra sự hiểu nhầm ấy chưa thấy xuất hiện ở những bản đồ do chính
người Trung Quốc vẽ từ hàng trăm năm trước.

Giao Chỉ là tên gọi
do các triều đại phong kiến Trung Quốc dùng chỉ người và nước Việt Nam
xưa. Thời Hùng Vương, Giao Chỉ là một trong 15 bộ của nước Văn Lang… Các
triều đại phong kiến Trung Quốc sau này nhiều khi vẫn dùng tên Giao chỉ
cũng như tên An Nam để chỉ quốc gia và nhân dân Đại Việt. Trong nhiều
văn bản và bi ký, tên Giao Chỉ vẫn còn chỉ nước ta tới hết thế kỷ XIX.

Người Trung Quốc không gọi biển Đông là biển Nam Trung Hoa

Trên
hai trang 11b và 12a trích từ sưu tập bản đồ Võ bị chí (ghi lại cuộc
hành trình của Trịnh Hòa trong thời gian 1405-1433 đi từ Trung Quốc qua
Ấn Độ dương tới Phi Châu) có vẽ nước ta tuy đơn giản nhưng cũng rõ ràng:
Nước Giao Chỉ bắc giáp Khâm Châu Trung Quốc, nam giáp nước Chiêm Thành,
đông giáp biển cả mang tên Giao Chỉ dương, tức biển của nước Giao Chỉ.
Đây là tư liệu của Trung Hoa khắc vẽ về nước ta và biển cả thuộc về nước
ta từ thế kỷ XV.

Năm 1842, tác giả người Trung Hoa - Ngụy
Nguyên xuất bản sách Hải quốc đồ chí mô tả và khắc vẽ bản đồ tất cả các
nước trên thế giới và toàn thể năm châu bốn bể, theo phương pháp khoa
học với kinh tuyến và vĩ tuyến. Trong sách này, Ngụy Nguyên đã vẽ hai
bản đồ về Việt Nam. Trong đó, bản đồ thứ nhất vẽ sơ sài, chia nước ta ra
hai phần (Việt Nam Đông đô và Việt Nam Tây đô). Ở ngoài khơi phía đông
hai phần Việt Nam, Ngụy Nguyên ghi rõ là Đông Dương đại hải, tức biển
Đông rất lớn.

Rõ ràng, hầu hết bản đồ Trung Hoa vẽ về Việt Nam
từ thế kỷ XV hoặc trước nữa cho tới đầu thế kỷ XX đều ghi biển cả phía
đông Việt Nam là Giao Chỉ dương hay Đông Dương đại hải hoặc Đông Nam
hải, đều có nghĩa là biển của Giao chỉ (tức Việt Nam) hay đơn giản là
biển Đông (của Việt Nam).

Đến giữa thế kỷ XX, Trung Quốc vẽ lên cái bản đồ có đường lưỡi bò.

Tôi
chỉ có hơn trăm cái bản đồ, tôi nghĩ là trên thế giới còn có hàng ngàn
cái bản đồ nhưng do điều kiện đi lại nên tôi không thể sưu tầm hết được.
Trong tất cả những bản đồ mà tôi nghiên cứu thì không thấy một cái bản
đồ nào của phương Tây nói rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của nước nào khác
mà đều nói là của Việt Nam. Sử liệu ghi rõ, biển Hoàng Sa, Trường Sa là
biển Giao Chỉ gần Trung Quốc.

PV: Với những tấm bản đồ trong tay thì ông có thể cho biết, Hoàng Sa và Trường Sa được khai phá từ khi nào?

Ông Nguyễn Đình Đầu:
Trên
bình diện quốc tế, thế giới chỉ mở rộng ra sau khi phát hiện ra Châu Mỹ
nên họ tiếp tục đi sang Châu Á tức là miền Đông của Ấn Độ. Họ bắt đầu
phát hiện ra bờ biển Việt Nam từ năm 1523. Đến năm 1525, họ bắt đầu vẽ
Hoàng Sa, Trường Sa.

Những nhà địa lý,lịch sử thế giới khi đó
đã nói Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam bằng cách họ ghi: bờ biển
Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Trong mấy trăm bản đồ mà tôi được
nghiên cứu, tiếp xúc, không có một bản đồ nào nói là bờ biển Hoàng Sa,
Trường Sa là của Trung Quốc hay của Malaixia, hay Philippin…

Tất
cả các bản đồ đó đều vẽ nhất loạt na ná như nhau. Quan trọng nhất là
trên các bản đồ đó ghi tên đảo, tên biển là gì và ở đâu thì đều nói là ở
Việt Nam. Nếu có một hoặc hai cái bản đồ thì còn nói là có sự nhầm lẫn.
Đằng này, tất cả các bản đồ và trong suốt 5 thế kỷ liền đều ghi là của
Việt Nam.

Về sau thì có những sự hiểu lầm, trước nói là Giao
Chỉ gần Trung Quốc sau đó họ bỏ chữ Giao Chỉ đi thì thành ra biển Trung
Quốc thôi. Mà bản thân Trung Quốc khi vẽ các bản đồ thì không bao giờ
nói là đó là biển Trung Quốc. Điều này được chứng minh cụ thể bằng các
hình ảnh, bản đồ một cách rất rõ ràng.

PV: Cá nhân ông
còn có tài liệu, bản đồ nào chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam tại hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà chưa được công bố?


Nguyễn Đình Đầu:
Trong số những chứng cứ của Việt Nam đưa ra nhằm khẳng định chủ quyền
tại hai quần đảo, có nhiều tài liệu là công trình nghiên cứu của tôi.
Tuy nhiên, có một số tài liệu còn chưa đưa ra, chúng ta còn giữ làm tin.
Nhưng cũng phải nói rõ, những cái đã công bố rồi đều khẳng định những
tư liệu đó chính xác, chủ quyền Việt Nam xác lập trên hai quần đảo đó là
không thể chối cãi.

Ngay cả trong ca dao bao đời nay của dân
tộc cũng đã nói “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”. Thế thì
biển Đông đó là cái gì? Đó sự thể hiện chủ quyền của Việt Nam về biển và
các quần đảo rất rõ ràng.

Tôi nghĩ là không chỉ để cho nhân
dân Việt Nam hiểu rõ mà chúng ta phải làm cho cả nhân dân thế giới hiểu.
Có một thực tế, ngay cả trên thế giới cũng có nhiều người hiểu nhầm. Đã
đến lúc phải tiếp tục đưa ra những bằng chứng đó.

Tôi tiếc là
bao lâu nay chúng ta chưa chú ý thu thập tư liệu của người khác viết về
mình, người ta công nhận chủ quyền của ta tại hai quần đảo đó không
những bằng bút tích, văn bản cổ mà còn bằng các bản đồ cổ một cách toàn
diện.

Với những bằng chứng mà tôi nghiên cứu, thu thập được đã
khẳng định một cách chắc chắn và toàn diện, tổng thể về chủ quyền của
Việt Nam tại biển Đông cũng như đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.

PV: Xin ông nói cụ thể hơn…

Ông Nguyễn Đình Đầu:
Tôi có những bản đồ gốc rất quý và là nguyên bản, khi đưa ra thì ai
cũng phải công nhận đó là những tư liệu khảo cổ. Tôi lấy thí dụ bản đồ
của Pháp vẽ có hai trạm khí tượng một ở Hoàng Sa và một ở Trường Sa nằm
trong hệ thống khí tượng Quốc tế. Đây là tài liệu không ai có thể chối
cãi được vì nó là bản đồ quốc tế.

Chúng ta còn có hàng trăm
những tài liệu như thế, rất chính xác. Và còn những tài liệu cổ viết
bằng chữ cổ và chữ các nước khác thì không thể nói là của Trung Quốc
được.

PV: Vậy ông đánh giá thế nào về những chứng cứ mà người Trung Quốc đưa ra để khẳng định 2 quần đảo trên của họ?

Nguyễn Đình Đầu:
Trung Quốc đã chuẩn bị 50 – 70 năm nay nhằm đưa ra những chứng cứ nói
rằng Trường Sa, Hoàng Sa hay phần lớn biển Đông là của họ. Chủ quan tôi
thấy rằng, tài liệu mà Trung Quốc công bố gần đây thể hiện sự vi phạm
nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đi ngược lại sự hòa hiếu, tình hữu nghị
giữa hai nước là láng giềng với nhau từ bao đời nay.

Việt Nam
là nước yêu chuộng hòa bình, không có tinh thần xâm chiếm ai cả. Với tư
cách là một siêu cường, Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về hành động
đó.

Các nhà hiền triết đã từng nói: “Tứ hải giai huynh đệ” tức
là người trong bốn bể đều là anh em. Vậy mà Trung Quốc lại cư xử như thế
thì tôi rất buồn. Tôi nghĩ những người cư xử như vậy là những người
không có tinh thần cao, hiểu biết cao về lịch sử.

Cũng phải nói
lại, những chứng cứ, tài liệu mà Trung Quốc đưa ra đó, thì không có một
cơ sở nào cả. Tôi có bản đồ cổ của Trung Quốc, do chính người Trung
Quốc vẽ cho thấy cực nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam. Vậy hà cớ gì,
nay lại cho rằng biển Đông là của tỉnh Hải Nam (Trung Quốc). Điều đó là
hết sức sai trái về mặt khoa học. Và điều đó là không bao giờ, ít nhất
là từ 5 thế kỷ nay rồi.

Tất cả những bản đồ của Trung Quốc và phương Tây vẽ đều không bao giờ nói là biển Đông nằm trong địa giới của đảo Hải Nam.

Xin cảm ơn ông!


GDVN

macsuong

macsuong
,
,

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90814_9_34_24 Tuần tra bảo vệ chủ quyền trênđảo Song Tử Tây, quần đảo Trường sa, Việt Nam


Trung Quốc chưa bao giờ có chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa
Trong
suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Tống Thần Công,
Minh Thành Tổ đến giữa thế kỷ XX (1951), tài liệu chính sử Trung Quốc đã
chưa bao giờ cho thấy chủ quyền của họ đối với các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa) trên Biển Đông của Việt Nam
(mà họ gọi là Biển Hoa Nam).

Chỉ từ những năm giữa thế kỷ XX trở lại đây, Trung Quốc thay đổi thái độ
và liên tục lên tiếng đòi hỏi chủ quyền "bất khả tranh nghị” đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, họ không đưa ra được cơ
sở pháp lý hay một bằng chứng lịch sử nào đáng tin cậy cho thấy họ có
chủ quyền hợp pháp trên các quần đảo này.

Trung
Quốc đòi hỏi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ
dựa trên các tài liệu của các nhà du hành, thám hiểm và dĩ nhiên, theo
công pháp quốc tế những tài liệu này không phải là các tư liệu chính
thức của Nhà nước có thể dựa vào để chứng minh chủ quyền và sự kiểm soát
chính thức của Trung Quốc tại các quần đảo này. Các bản đồ cổ mà Trung
Quốc trưng ra để làm bằng chứng lịch sử cũng không phải là bản đồ chính
thức của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Thậm chí, cho đến cuối thế
kỷ XX, tài liệu chính sử ghi chép lại cho thấy Trung Quốc vẫn không coi
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của họ. Điều này được
ghi nhận bởi các sự kiện liên quan đến 2 tàu La Bellona và Imeji Maru
vận chuyển đồng dưới sự bảo hiểm của các công ty Anh quốc. Hai tàu này
bị chìm trong khu vực quần đảo Hoàng Sa (Paracels), trong các năm 1895
và 1896. Các ngư dân Trung Quốc từ đảo Hải Nam đã thu nhặt đồng từ xác
tàu chìm và đem đi bán cho các thương nhân ở Hải Nam. Các công ty bảo
hiểm của hai con tàu đã phản đối với Chính phủ Trung Quốc, đòi Trung
Quốc phải chịu trách nhiệm. Khâm sai Quảng Đông lúc đó đã trả lời Công
sứ Anh tại Bắc Kinh rằng: "Paracels là những hòn đảo vô chủ, chẳng thuộc
Trung Quốc cũng như chẳng thuộc An Nam, về mặt hành chính chúng không
nằm trong địa phận của quận huyện nào ở Hải Nam và cũng không có cơ quan
đặc trách nào lo việc cảnh sát ở đó cả”. Trước những sự thật lịch sử
hiển nhiên như vậy, Trung Quốc vẫn mạo nhận rằng họ đã chiếm đóng quần
đảo Hoàng Sa từ thế kỷ thứ XV trong chuyến đi thứ tư của Trịnh Hòa năm
1413. Tuy nhiên, trong các sách sử chính thức của Trung Quốc ghi chép về
những chuyến hải hành phái bộ Trịnh Hòa không phải để chinh phục vùng
Biển Đông (mà họ gọi là Biển Hoa Nam) nơi có hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Đoàn thuyền của phái bộ này chỉ đi ngang qua Biển Đông hướng
về Ấn Độ Dương, không hề ghé lại các đảo hay quần đảo nào của Việt Nam.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90814_9_30_5

Chùa Việt Nam trên đảo Trường sa Lớn

Theo
luật pháp quốc tế, muốn xác lập chủ quyền lãnh thổ trên biển và hải đảo
phải hội đủ 3 điều kiện: phải có sự thực thi chủ quyền của Nhà nước;
thực thi một cách liên tục và lâu dài; được sự thừa nhận của các quốc
gia duyên hải, đặc biệt là các quốc gia tiếp cận và đối diện. Những tài
liệu chính sử của Trung Quốc cho thấy cho đến thế kỷ XIX người Trung
Quốc cũng chỉ đi ngang qua các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không hề
có việc tuyên bố, hành xử chủ quyền lâu dài và liên tục tại các đảo này.
Thậm chí, có tài liệu của Trung Quốc còn mặc nhiên công nhận sự liên hệ
của các quần đảo này với Việt Nam. Cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam
(1820-1842) viết: "Lộ trình phía ngoài được nối với lộ trình phía trong
bởi Vạn Lý Trường Sa nằm giữa biển. Chiều dài của quần đảo khoảng vài
chục ngàn dặm. Nó là bức phên dậu phòng thủ biên giới phía ngoài của
nước An Nam”. Hơn nữa, chính sử nhà Thanh còn ghi rõ cho đến cuối thế kỷ
XIX lãnh thổ Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam tại vĩ tuyến 18 là
hết, trong các bản đồ chính thức của triều đình không hề có các địa danh
Tây Sa, Nam Sa hay Vạn Lý Trường Sa... Có thể khẳng định rằng nhà Thanh
kết thúc từ năm 1911 chưa bao giờ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy, càng không bao giờ có cái
gọi là "vùng biển lịch sử” bao chiếm hầu như toàn bộ Biển Đông do Trung
Quốc tự tuyên bố như là "ao nhà” của họ từ hàng ngàn năm về trước.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90814_9_30_15

Bà con dân tộc miền núi Việt Nam thăm
UBND xã đảo Song Tử Tây, quần đảo Trường Sa


Luật
quốc tế cũng cho phép thủ đắc lãnh thổ do chiếm cứ, tuy nhiên phải hội
đủ các điều kiện sau đây: chiếm cứ thực sự; chiếm cứ công khai; và chiếm
cứ hoà bình. Không thể phủ nhận một sự thật lịch sử là vào năm 1956,
Trung Quốc đã bí mật chiếm cứ vũ trang các đảo phía đông quần đảo Hoàng
Sa. Năm 1974, Trung Quốc tiếp tục dùng vũ lực chiếm đoạt toàn bộ các đảo
phía tây quần đảo Hoàng Sa từ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1988,
Trung Quốc tiếp tục đưa tàu chiến vũ trang hạng nặng chiếm đoạt một số
đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Những vụ chiếm cứ này của Trung Quốc không
mang tính hòa bình mà do sử dụng vũ lực mang tính xâm lăng nên không
bao giờ được luật pháp quốc tế công nhận. Do đó, những đảo mà Trung Quốc
đã cưỡng chiếm bằng vũ lực trên Biển Đông không được coi là hợp pháp
nên không bao giờ có chủ quyền theo luật pháp quốc tế. Trong khi đó,
Việt Nam đã chiếm cứ, quản lý, khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa công khai, liên tục, lâu dài và hoà bình ít nhất từ thế kỷ XVII cho
đến nay, nên theo luật pháp quốc tế, Việt Nam có đủ điều kiện xác lập và
hành xử chủ quyền của mình trên hai quần đảo này, kể cả các đảo đã bị
cưỡng đoạt bằng vũ lực và đang bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90814_9_31_44

Đảo Trường Sa Lớn

Khi
Thế chiến thứ II còn đang tiếp diễn, năm 1943, đại diện ba cường quốc
đồng minh là Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa Dân Quốc đã họp tại Cairo (Ai Cập)
ra Tuyên cáo Cairo ngày 27-11-1943. Điều đáng lưu ý là tại Hội nghị
Cairo, Trung Hoa Dân Quốc không hề đòi hỏi chủ quyền hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Tháng 7-1945, đại diện Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô họp tại
Potsdam (Đức) ra Tuyên ngôn Potsdam ngày 26-7-1945, trong đó có việc ấn
định thể thức giải giới quân đội Nhật tại Thái Bình Dương. Theo đó,
Trung Quốc có nghĩa vụ giải giới quân đội Nhật tại Việt Nam từ vĩ tuyến
16 trở ra Bắc kể cả quần đảo Hoàng Sa; quân đội Anh từ vĩ tuyến 16 trở
vào Nam kể cả quần đảo Trường Sa. Giải giới không có nghĩa là tiếp thu
hay chiếm lãnh thổ. Do đó nếu Anh không có chủ quyền lãnh thổ ở Trường
Sa thì Trung Quốc cũng không có chủ quyền lãnh thổ tại Hoàng Sa, và dĩ
nhiên cũng không có chủ quyền ở Trường Sa. Tại Hội nghị San Francisco
năm 1951 Nhật Bản đã khước từ chủ quyền lãnh thổ tại hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa mà nước này chiếm đóng trong chiến tranh. Hội nghị cũng
đã phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc và mặc nhiên thừa nhận chủ quyền
của Việt Nam trên hai quần đảo này. Ngày 7-5-1951, tại phiên họp toàn
thể Hội nghị, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Chính phủ Quốc gia Việt Nam
Trần Văn Hữu đã lên diễn đàn công bố chủ quyền của Việt Nam tại hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa và không có sự phản kháng nào của tất cả các
quốc gia tham dự hội nghị. Về mặt pháp lý quốc tế, với sự công bố chủ
quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 51 quốc
gia hội viên Liên Hợp Quốc, có nghĩa là kể từ năm 1951 các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đã được cộng đồng thế giới thừa nhận thuộc chủ
quyền lãnh thổ của Việt Nam. Điều này có giá trị tuyệt đối, kể cả đối
với các quốc gia không tham dự Hội nghị. Ba năm sau, Hiệp định Genève
1954 tiếp tục khẳng định rõ ràng chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoài ra, Hiệp định Genève 1954 cũng khẳng định:
"Các quốc gia tham dự Hội nghị Genève (trong đó có Trung Quốc) cam kết
tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam”.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90814_9_34_10

Đoàn đại biểu các dân tộc Việt Nam
tại mốc chủ quyền trên đảo Trường Sa Lớn


Căn
cứ vào những tài liệu lịch sử chính thức có giá trị pháp lý quốc tế,
Trung Quốc đã ý thức được sự yếu kém của họ về cả 3 mặt pháp lý, địa lý
và lịch sử. Do đó, họ không bao giờ dám công khai thảo luận về vấn đề
tranh chấp chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các đảo
khác trên Biển Đông. Họ thường né tránh và luôn tuyên bố đó là một vấn
đề "không thể chối cãi” hay "không thể tranh luận”. Lý do rất đơn giản
vì họ không có đủ tài liệu hay lý lẽ để có thể đưa ra tranh nghị một
cách công khai trước sự giám sát của cộng đồng quốc tế cũng như của các
tổ chức đảm bảo việc thực thi luật pháp quốc tế để có thể chứng minh chủ
quyền hợp pháp của họ tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo luật
pháp quốc tế, ngày nay tất cả các cuộc xâm chiếm lãnh thổ bằng vũ lực
đều bị coi là bất hợp pháp nên không có giá trị pháp lý để xác lập chủ
quyền lãnh thổ. Do đó, các đảo mà Trung Quốc đã cưỡng chiếm bằng vũ lực
và đang chiếm giữ bất hợp pháp trên Biển Đông, cũng như tại hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là không bao giờ thuộc chủ quyền
lãnh thổ của Trung Quốc.




Theo Đại đoàn kết

bimbip

bimbip
.
.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90759_7_18_27
Việt Nam với chủ quyền Hoàng Sa -Trường Sa

Trong tất cả thư tịch cổ lẫn
trong các văn bản hiện tại, một điều không thể chối cãi là Hoàng Sa và
Trường Sa là của Việt Nam. Lời khẳng định này được nhấn mạnh từ lịch sử
và cả luật pháp quốc tế.

Để thêm
một lần làm rõ vấn đề này, từ hôm nay, VnMedia xin mở chuyên đề "Vì biển
đảo Tổ quốc". Rất mong nhận được sự cộng tác của bạn đọc, các nhà
nghiên cứu và các chuyên gia về lĩnh vực này.

Để rộng đường dư
luận, chúng tôi xin điểm lại một số khẳng định chân lý Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam để bạn đọc tiện theo dõi.

Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa

Các
bản đồ địa lý Việt Nam cổ ghi nhận Bãi Cát Vàng (được dùng để chỉ chung
cả Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ Việt Nam từ đầu thế kỷ 17. Trong
cuốn "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được xác
định rõ thuộc về tỉnh Quảng Ngãi. Ông miêu tả đó là nơi người ta có thể
khai thác các sản phẩm biển và những đồ vật sót lại từ các vụ đắm tàu.
Tài liệu ghi chép Việt Nam vào thế kỷ 17 nhắc đến các hoạt động kinh tế
được tài trợ của chính phủ dưới triều nhà Lê từ 200 năm trước đó. Nhà
Nguyễn đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu địa lý về các đảo từ thế kỷ
18.

Khẳng định chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn.

Thập
niên 1930, Pháp tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Chính phủ Bảo hộ đối
với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay cho Việt Nam, lúc đó đang là
nước thuộc địa của Pháp. Họ chiếm đóng một số đảo thuộc Trường Sa, gồm
cả đảo Ba Bình, và xây các trạm khí tượng trên hai đảo, và sau đó quản
lý chúng như một phần lãnh thổ của Đông Dương thuộc Pháp.

Khi người Pháp rời Việt Nam, các Hải lực Việt Nam Cộng hòa chính thức thay thế Pháp thực hiện chủ quyền đóng giữ Trường Sa.

Năm
1947, chính phủ Trung Hoa dân quốc đưa ra yêu sách về chủ quyền biển
Đông theo “đường lưỡi bò gồm 11 khúc đứt đoạn”. Năm 1949, chính quyền
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng yêu cầu tương tự nhưng không quyết
liệt, quốc tế coi như làm ngơ. Ngày 14/10/1950, tại Hội nghị ký hòa ước
San Francisco (Liên Hiệp Quốc), Thủ tướng Trần Văn Hữu của chính quyền
Bảo Đại do Pháp bảo trợ đã tuyên bố: “Chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có
từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”…

Không
chỉ có Việt Nam khẳng định chủ quyền của mình với Trường Sa và Hoàng Sa
mà một số sách của Trung Quốc cũng khẳng định vấn đề này.

Thứ
nhất là cuốn Chư Phiên Chí của sử gia Triệu Nhữ Quát đời nhà Tống chép:
Sau khi thôn tính Nam Việt, Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm đất
của địch quân (Nam Việt) và đặt ra 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải
Nam). Trong thế kỷ thứ I TCN, Hán Nguyên Đế đã rút quân khỏi đảo Hải
Nam. Cho đến đời nhà Lương và nhà Tùy (cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ
VII) mới đặt lại quyền cai trị.

Tài liệu cổ này cũng cho biết,
vùng Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa bây giờ) là nơi nguy hiểm, tàu thuyền
Trung Hoa không nên đến gần vì chỉ đi sai một tí là có thể chìm đắm;
đồng thời mô tả rõ Vạn Lý Trường Sa nằm ở phiên quốc, tức không thuộc về
Trung Hoa, mà thuộc về phiên quốc Nam Việt. Như vậy, biên giới trên
biển Đông của Trung Hoa vào đời nhà Hán chỉ tới đảo Hải Nam.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90759_7_17_13


Cuốn Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696

Trong
quyển 3 của Hải ngoại Ký sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa và khẳng định
Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên
quần đảo này.

Hải ngoại Ký sự mô tả: "Bởi vì có những cồn cát nằm
thẳng bờ biển, chạy dài từ Đông Bắc qua Tây Nam; động cao dựng đứng như
vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển; mặt cát khô rắn như sắt,
rủi thuyền chạm phải ắt tan tành; bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài
thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là Vạn Lý Trường Sa, mù tít
chẳng thấy cỏ cây nhà cửa. Nếu thuyền bị trái gió, trái nước tấp vào,
dầu không tan nát, cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà
thôi... Quảng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm. Thời
Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đi đánh cá dọc theo bãi cát, lượm
vàng bạc khí cụ của các thuyền lui tấp vào. Mùa thu nước dâng cạn, chảy
rút về hướng Đông, bị một ngọn sóng đưa thuyền có thể trôi xa cả trăm
dặm; sức gió chẳng mạnh, sợ có hiểm họa Trường Sa".

Bản đồ bở biển Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do người Hà Lan vẽ năm 1974

Tương
quan với tài liệu của Việt Nam về hoạt động của đội Hoàng Sa, có thể
nói, những gì Thích Đại Sán viết là hoàn toàn phù hợp, khách quan ghi
nhận chủ quyền của Đại Việt đối với quần đảo Hoàng Sa.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90759_7_17_43


Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909

Khảo
sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta
thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có
bản đồ nào hiển thị các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tất cả
bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía nam
của Trung Quốc, gồm: Dư địa đồ đời Nguyên của Chu Tư Bản trong sách
Quảng dư đồ của La Hồng Tiên; Thiên hạ Thống nhất Chi đồ đời Minh trong
Đại Minh Nhất thống chí, năm 1461; Hoàng Minh Đại thống nhất tổng đồ đời
Minh, trong Hoàng Minh Chức phương địa đồ của Trần Tổ Thụ, năm 1635; Lộ
phủ, Châu huyện đồ đời Nguyên vẽ lại trong Kim cổ dư đồ của Nguyễn Quốc
Phụ đời Minh, năm 1638; Hoàng triều Nhất thống dư địa tổng đồ trong tập
Hoàng triều Nhất thống dư địa tổng đồ (khuyết danh), năm 1894; Đại
Thanh đế quốc trong tập Đại Thanh đế quốc toàn đồ do Thường Vụ An Thư
Quán Thượng Hải, năm 1905...

Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm
đóng Hoàng Sa vào tháng 1/1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các
đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ,
đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì
để xác minh chủ quyền Trung Quốc, trái lại, họ phát hiện ở mặt bắc ngôi
miếu “Hoàng Sa Tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boiseé), lại
là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt
Nam dưới thời vua Minh Mạng.

Mặc dù chủ quyền về Trường Sa và
Hoàng Sa của Việt Nam đã được khẳng định, nhưng nhiều năm nay, Trung
Quốc đã có nhiều hành động leo thang đến vùng lãnh thổ này của Việt Nam.

* Những tư liệu phương Tây xác nhận về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:


- Nhật ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.

-
Le mémoire sur la Cochinchine của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825)
viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định
năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo
Paracels.

- An Nam Đại Quốc Họa Đồ của giám mục Taberd xuất bản
năm 1838 khẳng định Cát Vàng (Hoàng Sa) là Paracels và nằm trong vùng
biển của Việt Nam.

- The Journal of the Asiatic Society of
Bengal, Vol. VI đã đăng bài của giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long
chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels).


- The Journal of
the Geographycal Society of London (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính
quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở
Paracels...


(VnMedia)
Tin đăng lại

ubuntu

avatar
.
.

Thư tịch cổ Trung Hoa thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam
Theo
chính sử Trung Hoa, trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần, Hán đến sau
Thế chiến thứ II, không thấy tài liệu nào, hay nói rõ hơn, không có câu
chữ nào ghi rằng Biển Đông (Trung Quốc gọi là Biển Nam Trung Hoa) với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa)
thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Trong
khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi
lại trong lịch sử đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của
Việt Nam.

Một tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn "Lịch sử Trung
Quốc thời trung cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm
1978, học giả Hsieh Chiao-Min trong bài "Nghiên cứu về lịch sử và địa
lý” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau:
"Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc
Trung Hoa không tha thiết với đại dương”. Theo các tài liệu lịch sử
chính thống "thảng hoặc triều đình Trung Hoa cũng gửi những đoàn thám
hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông
Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rõ nét nhất là tại
Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập
quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ
III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX).


CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90308_10_43_4


Dưới
đời nhà Minh, Minh Thành Tổ cử Đô đốc Thái Giám Trịnh Hòa chỉ huy những
đoàn thám hiểm đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao
với trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con đường Tơ Lụa tại Ấn Độ,
Phi Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành của phái bộ Trịnh Hòa
không phải để chinh phục Biển Đông nơi có hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Trên thực tế đoàn thuyền chỉ đi ngang qua Biển Đông nhằm khai
phá Ấn Độ Dương. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong khu vực này là
Đồ Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành Tổ mất,
triều đình nhà Minh đã phê phán những cuộc hải trình nặng phần trình
diễn của Trịnh Hòa đã góp phần làm suy yếu nền kinh tế quốc gia.

Sử
gia Triệu Nhữ Quát đời nhà Tống trong cuốn Chư Phiên Chí đã xác nhận
nhiều sự kiện lịch sử quan trọng từ thời nhà Hán. Theo đó, năm 111 TCN,
sau khi thôn tính Nam Việt "Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm đất
của địch quân (Nam Việt) và đặt ra 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải
Nam). Trong thế kỷ thứ I TCN, Hán Nguyên Đế đã rút quân khỏi đảo Hải
Nam. Mãi tới đời nhà Lương và nhà Tùy (cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ
VII) mới đặt lại quyền cai trị”. Triệu Nhữ Quát cũng cho biết vùng quần
đảo Hoàng Sa (Vạn Lý Trường Sa) là nơi nguy hiểm, tàu thuyền Trung Hoa
không nên đến gần vì chỉ đi sai một tí là có thể chìm đắm. Nhan đề sách
là Chư Phiên Chí, có nghĩa là chép chuyện các phiên quốc, nước ngoài.
Vạn Lý Trường Sa nằm ở phiên quốc, có nghĩa là không thuộc về Trung Hoa
mà thuộc về phiên quốc Nam Việt. Như vậy, biên giới trên Biển Đông của
Trung Hoa vào đời nhà Hán chỉ tới đảo Hải Nam.


CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90308_10_44_19


Một
trang trong cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư
Trung Quốc đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong,
thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt.

Đời
nhà Đường có sách Đường Thư Nghệ Văn Chí đề cập tới cuốn Giao Châu Dị
Vật Chí của Dương Phu chép những chuyện kỳ dị và những nơi kỳ dị tại
Giao Châu (Việt Nam). Sách này chép, tại Thất Châu Dương (nhóm An Vĩnh,
quần đảo Hoàng Sa) là nơi có nhiều đá nam châm khiến các thuyền ngoại
dương có đóng chốt sắt đi qua không được. Điều này đã khẳng định quần
đảo Hoàng Sa thuộc về Giao Châu xưa (nay là Việt Nam). Trong đời Nam
Tống, cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Châu Khứ Phi cũng xác nhận: "Vạn Lý
Trường Sa (Hoàng Sa) tọa lạc tại Giao Chỉ Dương”. Chư Phiên Đồ đời Tống
cũng xác định giới hạn lãnh thổ của Trung Quốc với các nước khác ở Giao
Dương (tức Giao Chỉ Dương). Giao Chỉ Dương hay Biển Giao Chỉ là Vịnh Bắc
Bộ ngày nay, trong khi Hoàng Sa và Trường Sa lại cách xa Vịnh Bắc Bộ
hàng trăm dặm về phía nam. Như vậy, các thư tịch cổ Trung Hoa từ đời nhà
Tống đã cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về Trung Quốc mà
thuộc về nước khác mà Trung Quốc gọi là phiên quốc hay Giao Châu, Giao
Chỉ.

Vào đời nhà Nguyên, quân và dân Đại Việt đã 3 lần đánh tan
quân Nguyên – Mông xâm lược và góp phần phá tan kế hoạch Đông Tiến (đánh
Nhật Bản) của đoàn quân Mông Cổ nổi danh là bách chiến bách thắng từ
đời Thành Cát Tư Hãn. Sau 3 phen thất bại, nhà Nguyên không còn dòm ngó
Đại Việt cả trên lục địa đến các hải đảo. Trong suốt các thế kỷ XIII và
XIV, theo chính sử Trung Hoa, quân Mông Cổ không hề có ý định xâm chiếm
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong Dư Địa Đồ đời Nguyên của Chu
Tư Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách Quảng Dư Đồ của La Hồng Tiên thực
hiện năm 1561 phần cực nam lãnh thổ Trung Hoa là đảo Hải Nam.

Đời
nhà Minh, Thiên Hạ Thống Nhất Chi Đồ trong Đại Minh Nhất Thống Chí
(1461), Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ trong Hoàng Minh Chức Phương
Địa Đồ (1635) đã vẽ phần cực nam Trung Hoa là đảo Hải Nam. Trong khi
cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi gọi Biển Đông là Giao Chỉ Dương. Trên
các bản đồ Trịnh Hoà Hạ Tây Dương, Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ cũng không
thấy ghi chép các danh xưng Hoàng Sa, Trường Sa (hay theo cách gọi của
Trung Hoa là Tây Sa, Nam Sa, Tuyên Đức, Vĩnh Lạc) trong các lộ trình và
hải đạo của Trịnh Hòa sau 7 lần đi qua Biển Đông để khai phá Ấn Độ Dương
(Tây Dương). Nhiều tài liệu chính sử nhà Minh cho biết, từ thế kỷ XV,
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của
Chiêm Thành đã trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Lưu ý rằng từ năm 1427
Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh để giành lại chủ quyền cho Đại Việt bị
Minh Thành Tổ chiếm đoạt từ 20 năm trước (1407).

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA LA90308_10_46_16


Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ, đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan

Đời
nhà Thanh, từ thế kỷ thứ XVII đến XX, theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất
Thống Dư Địa Bản Đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến
cuối thế kỷ XIX "lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là
hết”. Qua thế kỷ XX, sự kiện này còn được xác nhận trong cuốn Trung Quốc
Địa Lý Học Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 với đoạn như sau: "Điểm cực
nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam)
tại vĩ tuyến 18”. Các quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam kéo
dài từ vĩ tuyến 20 (ngang Thanh Hoá) đến vĩ tuyến 18 (ngang Nghệ An – Hà
Tĩnh). Trong khi quần đảo Hoàng Sa tọa lạc về phía nam, từ vĩ tuyến 17
đến vĩ tuyến 15 (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và quần
đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 8 (Cam Ranh – Cà
Mau). Bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do triều đình nhà Thanh ấn hành cũng
không thấy vẽ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (cũng không thấy ghi
theo cách gọi của Trung Quốc là Tây Sa, Nam Sa, Vịnh Lạc, Tuyên Đức...).
Hơn nữa, trong bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam
(1820-1842) chép: "Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) là dải cát dài ngoài biển
được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cõi nước An Nam”. Như vậy,
tư liệu này của Trung Quốc đã thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ
trên biển của Việt Nam. Trong bộ sách địa lý Đại Thanh Nhất Thống Chí do
Quốc Sử Quán nhà Thanh biên soạn năm 1842 với lời tựa của hoàng đế
Thanh Tuyên Tông, không có chỗ nào ghi Thiên Lý Trường Sa hay Vạn Lý
Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa). Trong cuốn Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần
Luân Quýnh (1744), vùng biển của Việt Nam tại Biển Đông được ghi bằng
các danh xưng Việt Hải và Việt Dương. Trong vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp
tàu chở đồng bị đắm tại quần đảo Hoàng Sa những năm 1895-1896, để trả
lời văn thư phản kháng của Chính phủ Anh, Tổng đốc Lưỡng Quảng Trung Hoa
đã phủ nhận trách nhiệm với lý do: "Hoàng Sa không liên hệ gì tới Trung
Quốc”. Ngoài ra cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán một nhà
sư thời Khang Hy đã đến đất Thuận Hóa của chúa Nguyễn ngày 29 tháng
giêng năm Ất Hợi (13-3-1695) thuật lại chuyến hải hành này và ghi nhận
chủ quyền của Đại Việt trong việc chiếm hữu, kiểm soát và khai thác vùng
Biển Đông nơi tọa lạc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ
thế kỷ thứ XVII.

Các tài liệu cổ của Trung Hoa rõ ràng cho thấy
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam
Sa) đã được người Việt Nam phát hiện, sử dụng trong nhiều thế kỷ một
cách hoà bình và liên tục không có sự phản đối của bất cứ quốc gia nào
kể cả của Trung Quốc. Điều đó được minh chứng từ tư liệu chính sử của
nhiều triều đại Trung Quốc trong đó đã mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của
người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt hơn
22 thế kỷ từ thời Tần, Hán cho đến đầu thế kỷ XX.



Theo Báo Đất Việt
Tin đăng lạ

macsuong

macsuong
,
,

Hoàng Sa-Trường Sa: Tư liệu cổ phươngTây (28/06/2011)

Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đã có trong tài liệu phương Tây từ thế kỷ XV đến XIX.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA 2011_153_12_anh1




Tư liệu cổ phương Tây còn lưu lại đến nay cho thấy
các nhà hàng hải Bồ Đào Nha là những người đầu tiên của châu Âu có những
mô tả về quần đảo Hoàng Sa từ thế kỷ thứ XIV. Nhiều nhật ký hải trình
của các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha thời đó đã nói về một dải đá ngầm Pulo
Pracela (các bãi ngầm san hô) rất nguy hiểm, bao quát cả vùng Hoàng Sa
và Trường Sa ngày nay, tương tự với những hiểu biết của các nhà địa lý
Việt Nam cùng thời. Các cuộc khảo sát Biển Đông của các nhà hàng hải
phương Tây sau đó, nhất là của người Hà Lan và Pháp, ngày càng xác định
rõ Pracela hay Paracels (Hoàng Sa) là một quần đảo thuộc về nước An Nam
(tên gọi Việt Nam thời Pháp thuộc).


Bản đồ bán đảo Đông Dương của anh em nhà hàng hải
Hà Lan Van-Langren (1595) ghi nhận ngoài khơi Việt Nam có một vùng quần
đảo với nhiều bãi cát nông chạy dài xuống hướng tây nam gọi tên là
Paracels cùng với rất nhiều chi tiết địa hình của miền Trung Việt Nam
ngày nay. Chẳng hạn như đối diện với quần đảo Paracels trên đất liền có
bờ biển ghi là Costa da Pracels (bờ Pracels) ở ngoài biển còn có Pulo
Canton (Cù Lao Ré) thuộc địa phận Quảng Ngãi. Thư tịch cổ Việt Nam cũng
ghi nhận người Bồ Đào Nha và Hà Lan đã từng nhiều lần tiếp xúc với các
chúa Nguyễn xứ Đàng Trong để buôn bán. Nhiều thuyền buôn của phương Tây
gặp nạn ở Hoàng Sa đều cập vào bờ biển Việt Nam để xin giúp đỡ và cũng
nhiều lần họ được các chúa Nguyễn cử người ra cứu hộ, cấp cho tiền bạc,
lương thực và thuyền để trở về nguyên quán. Chẳng hạn vụ đắm tàu
Grootenbroeck của Hà Lan năm 1634 trong vùng đảo Hoàng Sa. Viên thuyền
trưởng đã tìm đến Hội An và Thuận Hoá để cầu cứu các chúa Nguyễn. Như
vậy, từ rất lâu đời (muộn nhất vào thế kỷ XV) các nhà hàng hải phương
Tây đã mặc nhiên xác định vùng quần đảo Hoàng Sa trên Biển Đông thuộc
quyền quản lý của các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong.


Bước sang thế kỷ XVII-XVIII, tàu thuyền của người
phương Tây đi qua Biển Đông ngày càng tấp nập, do đó nhận thức cũng như
tư liệu của họ viết về quần đảo Hoàng Sa ngày càng phong phú và chính
xác hơn. Đặc biệt là người Pháp thông qua sự cộng tác với Nguyễn Ánh về
quân sự đã bắt đầu quan tâm tới Biển Đông nhiều hơn và kế thừa những
hiểu biết của các nhà hàng hải Bồ Đào Nha, Hà Lan... Từ đó, người phương
Tây nhận thức rất rõ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là
của Việt Nam. Năm 1701, nhật ký hải trình tàu Amphitrite xác nhận một
thực tế hiển nhiên rằng "Paracels là một quần đảo thuộc về Vương quốc An
Nam. Đó là một bãi đá ngầm thật khủng khiếp có đến hàng trăm dặm, rất
nhiều lần đã xảy ra các nạn đắm tàu ở đó”. Pierre Poivre (1719-1786),
một giáo sĩ kiêm thương nhân người Pháp, nhiều lần qua lại vùng Hoàng Sa
đã kể lại trong tác phẩm Mô tả Xứ Đàng Trong (1749): "Tôi nghe nói hàng
năm nhà vua (chúa Nguyễn) thường cho vài chiếc thuyền ra Hoàng Sa để
tìm kiếm những báu vật tự nhiên cho bộ sưu tập của mình”. Khi được chúa
Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765) tiếp ở Phú Xuân, P.Poivre mô tả kinh đô
mới xây dựng của Đàng Trong và xác nhận những khẩu súng đại bác của Công
ty Đông Ấn Hà Lan được trưng bày rất nhiều tại đây là do quân binh xứ
này thu nhặt được từ những chiếc tàu chìm tại quần đảo Hoàng Sa mang về.
Năm 1759, bá tước D' Estaing, Phó Thủy sư Đô đốc Hải quân Pháp, do thám
vùng Biển Đông đã gửi một bản tường trình lên Chính phủ Pháp cho biết ở
Phú Xuân xứ Đàng Trong có đến hơn 400 khẩu đại bác mà phần lớn được đem
về từ các con tàu đắm tại quần đảo Hoàng Sa.


CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA 2011_153_12_anh2





An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ của Giám mục Taberd

xuất bản năm 1838 khẳng định Paracels (Cát Vàng, Hoàng Sa)

nằm trong vùng biển Việt Nam





Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) từng theo giúp
Nguyễn Ánh chống Tây Sơn, trông coi việc tiếp tế cho quân đội ở Phú Xuân
(Sắc ngày 16-3-1802), viết trong hồi ký Le Mémoire sur la Cochinchine
có đoạn: "Nước Cochinchine mà vua bấy giờ xưng đế hiệu (hoàng đế) gồm xứ
Đàng Trong, xứ Tonkin, một phần xứ Cao Miên, một vài đảo có dân cư
không xa bờ và quần đảo Paracels hợp thành bởi những đá nhỏ, đá ngầm và
mỏm đá không dân cư”. Xin lưu ý, từ thế kỷ XIII, các nước phương Tây
theo Marco Polo mà gọi tên nước ta là Caugigu (phiên âm từ Giao Chỉ
Quốc), sau đọc trại thành Kiaoche rồi Cochi. Để khỏi lầm với đất Koci
của Ấn Độ, người ta thêm chữ Chine, nên gọi thành Cochinchine là tên
chung của Đại Việt. Đến thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, người phương Tây
gọi Đàng Ngoài là Tonkin, còn Đàng Trong vẫn gọi là Cochinchine. Giám
mục Jean Louis Taberd trong một cuốn sách xuất bản năm 1833 cũng viết về
Paracels như sau: "Xin lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracels,
mà người Việt gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa gồm rất nhiều hòn đảo chằng
chịt với nhau, lởm chởm những đá nhô lên giữa những bãi cát, làm cho
những kẻ đi biển rất e ngại, đã được chiếm cứ bởi người Việt xứ Đàng
Trong”. An Nam Đại Quốc Họa Đồ của Giám mục Taberd xuất bản năm 1838
cũng khẳng định Cát Vàng (Hoàng Sa) là Paracels và nằm trong vùng biển
Việt Nam. Có thể nói, An Nam Đại Quốc Họa Đồ là một tài liệu phản ảnh
những hiểu biết sâu sắc và chính xác của người phương Tây từ thế kỷ XV
đến đầu thế kỷ XIX về mối quan hệ giữa quần đảo Hoàng Sa và nước Đại
Việt mà tác giả gọi là An Nam Đại Quốc. Trong bản đồ này có ghi chú
(nguyên văn): "Paracels Deu Cát Vàng” (từ Latin "Deu” = "có nghĩa là”),
Paracels có nghĩa là Cát Vàng có nghĩa là Hoàng Sa, là một khẳng định rõ
ràng nhất quán chứ không hề suy diễn. Địa danh Paracels ghi bên cạnh
những chấm đánh dấu các đảo khoảng vĩ độ 16 Bắc (ngang vĩ độ cửa Tư
Dung, Thừa Thiên) lên vĩ độ 17 Bắc (khoảng Cửa Tùng, Quảng Trị) và kinh
độ 111 Đông. Điều này phản ánh sự hiểu biết của người phương Tây về
Hoàng Sa rất chính xác và không còn nhầm lẫn với quần đảo Trường Sa nữa.




Địa Lý Vương Quốc Đàng Trong (Geopraphy of the
Cochinchinese Empire) là cuốn sách do tiến sĩ Gutzlaff (1801-1851) Hội
viên Hội Địa lý Hoàng gia Anh quốc, viết năm 1849 cho biết từ lâu Chính
phủ An Nam đã thiết lập trại binh và một điểm thu thuế trên quần đảo
Paracels (tức Cát Vàng) để thu thuế các tàu thuyền đến đây và bảo trợ
những người đánh cá bản quốc. Cuốn Bách Khoa Địa Lý Hiện Đại (Geografia
moderna universale) của G.R. Pagnozzi xuất bản năm 1823 dành nhiều trang
nói về Vương quốc An Nam có đề cập đến Paracels (Hoàng Sa). Trong cuốn
Storia delle Indie Orientali của Felice Ripamonti xuất bản tại Milano
năm 1825 có phần viết về Đàng Trong: "Thuyền trưởng các tàu buôn qua lại
vùng này thích cập cảng Hội An hơn, cảng này không xa thủ đô Huế. Những
người đi biển ở 3 cảng này (tức cảng Huế, Hội An và Đà Nẵng) là những
người lão luyện nhất của quốc gia này và hàng năm có chuyến đi biển đến
chuỗi đảo và bãi đá nhỏ có tên là Hoàng Sa (Paracels) nằm cách bờ biển
Đàng Trong khoảng 20-30 dặm...”. Sách Địa Lý Tóm Tắt (Compendio di
Geografia) do Adriano Balbi – nhà địa lý lừng danh người Ý- soạn năm
1850 cho biết Vương quốc An Nam có quần đảo Paracels, nhóm đảo Pirati và
nhóm đảo Poulo Condor (tức Hoàng Sa, Hải Tặc và Côn Đảo). Cũng trong
tác phẩm này tác giả có viết về địa lý Trung Hoa nhưng không hề nói gì
về Hoàng Sa và Trường Sa. Nhiều tài liệu lưu trữ của Anh và Pháp còn ghi
nhận về vụ tai nạn tàu Bellona của Đức tại Đá Bắc và tàu Imegi Maru của
Nhật tại cụm An Vĩnh, quần đảo Hoàng Sa. Hai tàu này chuyên chở đồng do
các công ty Anh bảo hiểm, gặp thời tiết xấu tại các khu vực biển nói
trên nên bị chìm. Ngư dân đảo Hải Nam (Trung Quốc) đã cướp các tàu đắm
và chuyên chở đồng về đảo Hải Nam chào mời các nhà buôn của họ để bán
lại số đồng cướp được. Chính phủ Anh đã phản kháng hành động này và được
chính quyền Trung Quốc bấy giờ tuyên bố không chịu trách nhiệm vì quần
đảo Paracels nơi hai tàu bị đắm không thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Sự
kiện này càng khẳng định sự dửng dưng của Trung Quốc đối với quần đảo
Hoàng Sa cho đến những năm cuối cùng của thế kỷ XIX.

Nhóm PV Biển Đông

macsuong

macsuong
,
,

Phía
Trung Quốc cũng đã đưa ra những tài liệu để chứng minh rằng mình đã
khám phá và hành xử chủ quyền trước tiên. Tuy nhiên, những tài liệu này
chỉ cho thấy những thuyền bè của Trung Quốc thời đó đã lui tới Biển
Đông, và trong lộ trình, họ tình cờ thấy những đảo mang nhiều tên khác
nhau, nhưng không có đảo nào tên là Xisha hay Nansha. Nếu đặt giả thuyết
là Trung Quốc đã khám phá ra những đảo này, thì Trung Quốc đã không
hành xử chủ quyền trên đó. Sự hiện diện của những người đánh cá không đủ
để gọi rằng đó là hành xử chủ quyền của nhà nước. Do đó, chủ quyền lịch
sử mà Trung Quốc khẳng định mình có, rất yếu. Phần lớn các tác giả luật
gia chuyên về luật quốc tế, trừ những tác giả Trung Hoa, đều công nhận
điều này.[84]
So sánh chủ quyền lịch sử viện dẫn bởi hai bên, chúng ta có thể kết
luận rằng giữa Việt Nam và Trung Quốc thì Việt Nam mới là quốc gia có
chủ quyền lịch sử trên hai quần đảo. Phân tích còn cho thấy chủ quyền
lịch sử của Việt Nam đã được hoàn tất từ thế kỷ XVII, dưới thời Chúa
Nguyễn.


Hiệp
ước Pháp-Thanh 1887 không trao chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa cho Trung Quốc vì Hiệp ước này chỉ là hiệp ước ấn định biên
giới giữa miền Bắc Việt Nam và Trung Hoa. Do đó, nó chỉ ấn định phần
biên giới ở Vân Nam, Quảng Đông và Vịnh Bắc Bộ. Những lời tuyên bố trước
đây của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về hai quần đảo này không có hiệu lực
vì trước năm 1975 hai quần đảo này không thuộc quyền kiểm soát của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, mà thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam Cộng hoà.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không phải là quốc gia tranh chấp, nên
những lời tuyên bố này chỉ là những lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba
không liên can. Hơn nữa, lúc đó nếu không chấp nhận rằng Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa là một quốc gia thứ ba, thì “estoppel” cũng không áp dụng
trong những trường hợp này, vì Trung Quốc đã không bị thiệt hại gì, và
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không hưởng lợi gì qua những lời tuyên bố
đó. Lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ là một lời hứa bị tác
động bởi hoàn cảnh chiến tranh. Cuối cùng, nếu xem ba lời tuyên bố này
như là của Việt Nam nói chung, thì nó thiếu tính liên tục và trường kỳ
để có thể làm mất đi chủ quyền của Việt Nam, với tư cách là một chủ thể
duy nhất, đã hành xử và khẳng định quyết liệt từ hơn ba thế kỷ nay. Trên
thực tế thì hiện nay, Trung Quốc đã kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng
Sa. Trung Quốc đã cho xây cất nhiều công trình nhằm củng cố sự chiếm hữu
bất hợp pháp. Một sự chiếm hữu bất hợp pháp, với thời gian, nếu không
có sự phản đối từ quốc gia kia, và nếu có sự thừa nhận của các quốc gia
thứ ba, sẽ tạo nên chủ quyền cho quốc gia chiếm hữu. Vì thời gian với sự
công nhận sẽ “tẩy xoá tội lỗi”.[85]
Trong hoàn cảnh hiện tại, muốn bảo đảm cho sự chiếm hữu của Trung Quốc
không thể tạo ra chủ quyền được, thì Việt Nam phải thường xuyên lên
tiếng phản đối và khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa (và cả Trường Sa
nữa). Việt Nam cũng nên công khai đề nghị Trung Quốc đưa vấn đề Hoàng
Sa và Trường Sa ra trước Toà án Quốc tế. Nếu Trung Quốc thật tình tin
tưởng rằng mình có căn bản pháp lý vững chắc để khẳng định chủ quyền
trên hai quần đảo này, thì Trung Quốc không có lý do gì để từ chối một
giải pháp pháp lý. Còn Trường Sa thì hiện nay đang bị 6 quốc gia và vùng
lãnh thổ chiếm giữ là: Philippin, Việt Nam, Đài Loan, Trung Quốc,
Malaxia và Brunây. Quốc gia nào cũng đòi chủ quyền của mình trên hết cả
quần đảo hoặc một số đảo. Đến nay, vấn đề vẫn chưa giải quyết được mà
còn trầm trọng thêm.


Năm 1988, Trung Quốc lần đầu tiên ra đánh chiếm một số đảo ở Trường Sa,
tàu của Việt Nam bị đánh đắm, nhưng Trung Quốc chặn không cho tàu của
Hội Chữ thập đỏ đến cứu. Đây là một sự vi phạm những điều luật cơ bản
nhất của chiến tranh. Như vậy, có thể suy đoán Trung Quốc sẽ không ngần
ngại gì mà không tiếp tục sử dụng vũ lực. Từ đó đến nay, lâu lâu, Trung
Quốc lại chiếm thêm vài đảo ở quần đảo Trường Sa. Trung Quốc một mặt vẫn
hô hào tôn trọng luật quốc tế, và đề nghị thương thuyết song phương,
nhưng lời nói của Trung Quốc không đi đôi với việc làm.[86]
Vì vậy, không thể dựa vào những lời nói của Trung Quốc để kết luận rằng
Trung Quốc sẽ ngừng không dùng vũ lực. Viễn tưởng Trung Quốc dùng biện
pháp vũ lực để thôn tính hết các đảo tại quần đảo Trường Sa càng dễ xảy
ra hơn, khi mà Mỹ và Nga đã rút khỏi Biển Đông, để lại một khoảng trống
chính trị và quân sự tại vùng này, khiến cho Trung Quốc hiện nay là một
quốc gia bá chủ ở Biển Đông.[87]
Điều này rất đáng lo ngại. Trung Quốc nắm hết cả hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa là nắm hết Biển Đông, mà Biển Đông là con đường giao thông
quan trọng của các thuyền bè Nga, Mỹ, Nhật Bản và các quốc gia khác trên
thế giới.[88]


Một giải pháp thương thuyết song phương giữa Trung Quốc và các quốc gia
và lãnh thổ tranh chấp khó thực hiện được một cách công bằng, vì sức
mạnh để thương thuyết giữa hai bên không bằng nhau, nó chênh lệch và
mạnh dĩ nhiên là Trung Quốc. Cũng vì vậy mà Trung Quốc cho đến nay chỉ
chấp nhận thương thuyết song phương. Trung Quốc muốn thương thuyết song
phương để buộc quốc gia đối phương phải thương thuyết theo chiều mà
Trung Quốc muốn. Nếu không Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực.[89]
Đây chỉ là một chiến thuật để Trung Quốc tranh thủ thời gian để củng cố
thêm thế của mình đối với hai quần đảo. Thời gian càng kéo dài thì càng
có lợi cho Trung Quốc. Giải pháp khai thác chung mà Trung Quốc đề nghị
không thể thực hiện được khi mà vấn đề chủ quyền chưa được giải quyết.
Như vậy, thời gian càng kéo dài thì lại càng củng cố được những sự chiếm
hữu bất hợp pháp, và quốc gia nào có chủ quyền pháp lý vững vàng sẽ bị
thiệt thòi. Giải pháp đưa ra Toà án Quốc tế hoặc Trọng tài Quốc tế có lẽ
công bằng nhất, nhưng Trung Hoa ngày xưa đã hơn một lần phủ nhận giải
pháp này, khi Pháp đề nghị vào năm 1932 và năm 1947. Đối với Trung Quốc
bây giờ thì lại càng khó hơn nữa. Giải pháp hiện thời, thực tiễn nhất là
đem ra khối ASEAN hoặc Liên hợp quốc để giải quyết. Liên hợp quốc là
giải pháp có thể hữu hiệu hơn, vì đem ra cơ quan này có tính cách khoáng
đại, cho phép Mỹ, Nga, Nhật Bản và các quốc gia khác tham dự vào. Hơn
nữa, trường hợp Liên hợp quốc không giải quyết được, hoặc nếu có vấn đề
trong việc giải quyết, Liên hợp quốc vẫn có quyền đem vấn đề ra Toà án
quốc tế và yêu cầu Toà cho ý kiến (avis consultatif) mà không
cần sự đồng ý của bất cứ quốc gia nào. “Thủ tục cho ý kiến” của Toà án
Quốc tế không có hiệu lực quyết định như một bản án thực sự, nhưng nó
vẫn có một tác động mạnh mẽ trong dư luận thế giới. Vụ tranh chấp vùng
Tây Sahara đã được Toà cho ý kiến trong những hoàn cảnh như trên (nghĩa
là thể theo yêu cầu của Liên hợp quốc).[90]
Cuộc tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cần phải giải quyết
càng sớm càng tốt. Để càng lâu, nó càng đe dọa hòa bình ở Đông Nam Á và
có thể là hoà bình thế giới.


* Tham luận đọc tại Hội Thảo HèVấn Đề Tranh Chấp Biển Đôngtại New York City, ngày 15-16 tháng 8, 1998.[1] Tiến sĩ Luật, Đại học Sorbonne.

[2]
Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục. Trích từ Võ Long Tê, Les archipels de
Hoang Sa et de Truong Sa selon les anciens ouvrages viêtnamiens
d’histoire et de geographie, Sài Gòn, 1974, tr. 62.


[3] Eveil economique de l’Indochine, no. 741.

[4] Nguyễn Quốc Định: Droit International Public, LIbrarie Générale de Droit et de Jurisprudence, Paris, 1975. tr. 401-402.

[5] Robert Jennings: The acquisition of territory in international law(New York, 1963), viện dẫn Charles de Visscher. Luật gia Charles de Visscher viết như sau về phương pháp consolidation:

“… Le long usage établi, qui en est le fondement, ne fait que traduire
un ensemble d’interêts et de relations qui tendent par eux meme à
rattacher un territoire ou un espace maritime à un état determine… elle
peut être repute acquise… par une absence d’opposition suffisemment
prolongée…”, xem Jennings, tr. 25, lưu ý 2.


[6] Võ Long Tê, Kes archipels de Hoàng Sa et de Trường Sa selon les anciens ouvrages viêtnamiens d’histoire et de geographie,Sài Gòn, 1974, tr. 39 và 40.

[7] Sđd., tr. 34-35.

[8] Sđd. tr. 48.

[9] Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, 1776.Vụ Thông tin và Báo chí Bộ Ngoại giao Việt Nam viện dẫn: Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,Hà Nội, 1979, tr. 13.

[10] Sđd, tr. 14-15.

[11] Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, tr. 13 và 14.

[12] Võ Long Tê, Sđd, tr. 69.

[13] M.A. Dubois de Jancigny: Thế giới, lịch sử và sự mô tả các dân tộc, các tôn giáo của họ,Ceylan, (1830). Võ Long Tê viện dẫn, Sđd, tr. 168.

[14] J. B. Chaigneau (1769-1825): Notice sur la Cochinchine, 1820. Võ Long Tê viện dẫn, Sđd, tr. 168.

[15] Vụ Thông tin và Báo chí Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 21.

[16] Võ Long Tê, Sđd, tr. 100.

[17] Vụ Thông tin và Báo chí Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 21.

[18] Sđd, tr. 25.

[19] Gutzlaff: Geography of the Cochinchinese Empire in Journal of the Geographical Society of London,1849,
tập XIX. Viện dẫn bởi Nhà xuất bản Sự thật, Sđd, tr. 16, Gutzlaff viết
như sau: “Chính phủ An Nam thấy đặt một hạn ngạch thuế thì có thể thu
được nhiều lợi bèn lập những trưng thuyền và một trại quân nhỏ ở chỗ này
(tức quần đảo Paracel, mà tác giả gọi là KatVang) để thu thuế mà mọi
người tới đây đều phải nộp…”


[20] Vụ án Clipperton: Recueil des Sentences Arbitrales, tập II.

[21] Teh-Kuang Chang: China’s claim of sovereignty over Spratley and Paracel Islands: a historical and legal perspective, Case Western Reserve Journal of International Law,vol. 23 (1991), p. 418.

[22] Jian-Ming Shen: International law rules and historical evidence supporting China’s title to the South China Sea islands, Hastings International and Comparative Law Review,vol. 21 (1997), p. 22 & 23.

[23] Vụ án đảo Palmas: Receuil des Sentences Arbitrales, tập II, tr. 859-860.

[24] Monique Chemillier-Gendreau: La souveraineté sur les Paracels et Spratleys.L’Harmatan, Paris, 1996, p. 71.

[25] Võ Long Tê, Sđd, tr. 111.

[26] Sđd, tr. 110.

[27] Gendreau, Sđd, tr. 21, 23.

[28] Võ Long Tê, Sđd, tr. 134.

[29] Võ Long Tê, Sđd, tr. 61.

[30] Sđd, tr. 157.

[31] Tao Cheng: The dispute over the South China Sea Islands, Texas International Law Journal,vol. 10 (1975), p. 272.

[32] Jian-Ming Shen, Sđd, tr. 18.

[33] Sđd, tr. 17.

[34] Elizabeth van Wie Davis: China and the Law of the Sea Convention, Follow the Sea,New York, 1995, p. 154.

Cũng xem Marwyn Samuels: Contest for the South China Sea,New York/London, 1982, tr. 16. Và Shen, Sđd, tr. 21.

[35] Van Wie Davis, Sđd.

Cũng xem Shen, Sđd,tr. 31.

Cũng xem Hungdah Chiu & Choon-ho Park: Legal status of the Paracels and Spratly Islands, Ocean Development and International Law Journal,tập 3 (1975), tr. 43.

[36] Samuels, Sđd,note 31, tr. 38.

[37] Lưu Văn Lợi: Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 10.

[38] Shen, Sđd,tr. 15.

[39] Sđd,tr. 18.

[40] Sđd,tr. 19.

[41] Sđd,tr. 20.

[42] Sđd,tr. 21.

[43] Sđd,tr. 20 và 21. Cũng xem Teh Kuang Chang, Sđd,tr. 400, và Hungdah Chiu, Sđd,lưu ý 32, tr. 463 và 465.

[44] Shen, Sđd,tr. 27.

[45] Sđd.

[46] Xem chú thích 2 ở trang 361, Chiu, Sđd,lưu ý 32.

[47] “… guo Qizhou Yang, Wanlishitang…”. Chữ “guo” của tiếng Trung, nghĩa là “qua” của tiếng Việt.

[48] Shen, Sđd,tr. 28.

[49] Hungdah, Sđd,tr. 463.

[50] Lưu Văn Lợi, Sđd,tr. 17.

[51] Samuels, Sđd,tr. 21 và 22.

[52] Sđd,tr. 23.

[53] Gendreau, Sđd, tr. 57 và 58. Cũng xem Lưu Văn Lợi, Sđd,tr. 14.

[54] Vụ án đảo Palmas, Sđd,tr. 846. “Inchoate title must be completed within a reasonable time by effective occupation of the region…”.

[55] Samuels, Sđd,tr. 30-31, 42.

[56] Sđd,tr. 20.

[57] Sđd,tr. 17 và 21.

[58] Ít ra các tác giả sau đây đã viện dẫn Hiệp ước 1887:

- Hungdah, Sđd,tr. 464 và 467.

- Shen, Sđd,tr. 119.

- Tao Cheng, Sđd,tr. 274.

-
John Chao: South China Sea: boundary problems relating to the Nansha
and Xisha Islands, Chinese Yearbook of International Law, tập 9
(1989-1990): tr. 119 và tiếp theo.


-
Steve Kuan Tsy Yu, Who owns the Paracel and Spratlys? An evaluation of
the nature and legal basis of the conflicting territorial claims, Chinese Yearbook of International Law,vol. 9 (1989-1990): p. 5, 7 and 8.


- Choon-ho Park, The South China Sea dispute: Who owns the islands and the natural resources?Ocean Development and International Law Journal,vol. 5 (1978): p. 34.

- Marwyn Samuels, Sđd,tr. 52-53.

- Brian Murphy, Dangerous ground: the Spratly Islands and international law, Ocean and Coastal Law Journal,vol. 1 (1994), p. 201.

- Elizabeth van De Wie, Sđd,tr. 52-53.

- Michael Bennet, The PRC and the use of international law in the Spratly Islands dispute, Stanford Journal of International Law,vol. 28 (1992), p. 446.

[59] Hungdah, Sđd,tr. 464.

[60] Shen, supra,tr. 120.

[61] Receuil des Traités de la France, Tome 17 (1886- 1887).Duran & Pedone (Paris), 1891, p. 387.

[62] Convention de Vienne sur le Droit des Traités,1969, Art. 32.

[63] Có tác giả đã cho rằng Hiệp ước 1887 không ấn định biên giới biển, xem Elizabeth van De Wie,Sđd,tr.
156. Tuy nhiên, nếu theo sát nghĩa lời văn của Điều 2 của bản Hiệp ước
(tức là hiểu những từ theo nghĩa thông thường của chúng) thì rõ ràng là
kinh tuyến Paris 105°43’ là biên giới biển giữa miền Bắc Việt Nam và
Trung Hoa. “Les Iles qui sont à l’est du meridien de Paris 105°43’, …
c’est à dire de la ligne Nord-Sud passant par le point oriental de l’èle
de Tra Co, et formant la frontière…”


[64] Receuil des Traités, Sđd,tr. 387 và 388.

[65] Sđd,Rapport Vaulcomte, tr. 187.

[66] Traité de Paix, d’Amitié et de Commerce conclu à Tien-Tsin le 9/6/1885 entre la France et la Chine, trong Receuil des Traités de la France,Tome 16, tr. 496.

[67] Rapport Vaulcomte, Sđd,tr. 189-191.

[68] Shen, Sđd,tr. 123.

[69] Lưu Văn Lợi, Sđd,tr. 105.

[70] Gendreau, Sđd,tr. 123.

[71] Shen, Sđd,tr. 57.

[72] Charles Vallée: Quelqques observations sur l’estoppel en Droit des gens, Revue Générale de Droit International Publie(1973),p. 951, note 7.

[73] D. W. Bowett: Estoppel before International Tribunals and its relation to acquiescence, Bristish Yearbook of International Law,vol. 33 (1957), p. 177.

[74] Antoine Martin: L’Estoppel en droit international public Précédé d’un apercu de la théorie de l’estoppel en droit anglais, Revue Générale de Droit International Publie,vol. 32 (1979), p. 274.

[75] Sđd,tr. 286-300.

[76] Délimitation de la frontière maritime dans la region du Golfe de Maine, Cour Internationale de Justice Receuil, 1984, p. 309-310.

- Activités militaires et para-militaires au Ncarague et contre celui-ci, Cour Internationale de Justice Receuil,1984. p. 414-415.

- Affaire du Temple Préah Vihear, Cour Internationale de Justice Receuil, 1962, p. 22-23, 32.

[77] Brigitte Bollecker-Stern: L’Affaire des essays nucléaires francais devant la Cour Internationale de Justice, Annuaire Francais de Droit International(1974),
p. 329. Cũng xem Megan Wagner: Jurisdiction by Estoppel in the
International Court of Justice, California Law Review, vol. 74, p. 1792.


[78] Cour Internationale de Justice Receuil 1984, Sđd, p. 414.

[79] Lưu Văn Lợi, Sđd, tr. 75.

[80] Cour Internationale de Justice Receuil, 1974, tr. 267 và 269.

[81] Lưu Văn Lợi, Sđd,tr. 104-110.

[82] Megan Wagner, Sđd,lưu ý 64, tr. 1780.

[83] Bollecker – Stern, Sđd,tr. 331.

[84] Trong các tác giả phương Tây khẳng định lý lẽ chủ quyền lịch sử của Trung Quốc rất yếu, có ít nhất các tác giả sau:

- Bennett, Sđd,tr. 446;

- Murphy, Sđd,tr. 201;

- Roque Jr., Sđd,tr. 203;

- Chemillier – Gendreau, Sđd,tr. 66;

- Jean Pierre Ferrieer, xem tiếp, tr. 182;

- Samuels, Sđd,tr.
40. Giáo sư Samuels không bàn đến vấn đề chủ quyền, nhưng phân tích
lịch sử sự liên hệ của Trung Hoa đối với biển Đông và các đảo; ông viết
rằng cho đến thế kỷ XIX không có bằng chứng nào rằng nhà Thanh đã chiếm
hữu những đảo này làm sở hữu của mình: “By the mid-19th
Century, the literari cognitive map of the South China Sea had become
more elaborate, but still barely touched upon the islands of the sea…
There is no evidence here that the Ching State had in any sense absorbed
the islands into the imperial domain.”


[85] Jean Pierre Ferrier: Le conflit des iles Paracels et le problème de la souveraineté sur les iles inhabités, Annuảie Francais de Droit International(1975),
p. 178: “… quoi qu’il en soit la conquête militaire des iles par la
Chine ne peut résoudre le problème juridique: pour qu’une telle
occupation, ellegale dans son principe, puisse avoir des effets
juridiques, il faut que la reconnaissance par les autres états
intervienne et ‘purge juridiquement de ses vices’ l’annexion ainsi
réalisée.”


[86] Mark Valencia: China and the South China Sea disputes,Oxford University Press, London, 1995, p.7

[87] Bennett, Sđd,tr. 427.

[88] Jeannette Greenfield: China’s practice in the Law of the Sea, Clarendon Press, Oxford, 1992, p. 13.

[89] Mark Valencia, Sđd,tr. 6 và 7. Cũng xem Murphy, Sđd,tr. 209 và 210.

[90] Vụ Sahara Occidental, xem Avis Consultatif, Cour Internationale de Justice Receuil,1975,
tr. 21 tới 28. Trong những trang này, Toà nói về thẩm quyền cho ý kiến
của mình thể theo Điều 65, Đoạn 1 trong Quy chế của Toà.


© Tạp chí Thời đại

macsuong

macsuong
,
,

1.3. Chủ quyền lịch sử viện dẫn bởi Trung Quốc

Trung Quốc cũng viện dẫn quyền khám phá và sự hành xử chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

1.3.1. Quyền khám phá

Trung
Quốc đã khẳng định rằng mình đã khám phá ra hai quần đảo tranh chấp từ
đời nhà Hán, năm 206 trước Công nguyên. Tuy nhiên, có tác giả Trung Hoa
lại xác định là những tài liệu sớm nhất ghi chép sinh hoạt của người
Trung Hoa trên những đảo này, thuộc đời nhà Tống (thế kỷ XIII).[31]
Trung Quốc đã viện dẫn nhiều đoạn trích từ sách sử địa của mình. Nhưng
thực tế cho thấy các đoạn do Trung Quốc đưa ra, chỉ tả hai quần đảo như
những gì nằm trong lộ trình đi ngang Biển Đông mà thôi. Ngoài ra, các
đoạn được viện dẫn trước thế kỷ XIII cũng không nói đến đảo nào, mà chỉ
nói đến biển Nam Hải. Những đoạn sách viết từ thế kỷ XIII mới bắt đầu
nêu tên đảo, nhưng không có đoạn nào nói tới Xisha và Nansha. Nhiều điểm
từ những đoạn được nêu ra, còn cho thấy rõ ràng Wanlishitang (Vạn Lý
Thạch Sành) mà Trung Quốc nói là Nansha thực tế không phải là Nansha mà
là đảo khác.


a) Sách sử trước thế kỷ XIII·

Quyển Dị vật chí thời Hán (Yi Wu Zhi), viết như sau:[32]

“Có
những đảo nhỏ, cồn cát, đá ngầm, và băng cát tại Nam Hải, nơi đó nước
cạn và đầy đá nam châm…”. Những câu tả này rất mơ hồ, chỉ viết “có những
đảo nhỏ”, mà không nói rõ đảo nào.


· Quyển Zuo Zhuan viết từ thời Xuân Thu, ghi như sau:[33]

“Triều đại vẻ vang của nhà Chu trấn an dân man di để viễn chinh vùng Nam Hải (đảo) để làm sở hữu của Trung Hoa…”

Chữ
“đảo” là do tác giả Jian-Ming Shen thêm vào trong dấu ngoặc để ám chỉ
rằng “Nam Hải” có nghĩa là “những đảo ở vùng Nam Hải”. Bản văn bằng
tiếng Trung Hoa chỉ ghi “Nam Hải” chứ không phải “NamHaidao”.


b ) Sách sử từ thế kỷ XIII

· Quyển Chư Phiên Chí (thế kỷ XIII) có ghi rằng: “Phía Đông Hải Nam là Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Đường, và ngoài nữa là đại dương vô tận…”[34]

· Quyển Hải Lục (On the Sea), tác giả Hoàng Chung, xuất bản đời Minh, ghi rằng: “Vạn Lý Trường Sa nằm ở Đông Nam của Vạn Lý Thạch Đường…”.[35]

·
Ngay cả những tài liệu sử thế kỷ XIX của Trung Hoa, đồng thời với sự
chiếm hữu và hành xử chủ quyền của các vua nhà Nguyễn tại Việt Nam, cũng
chỉ tả những đảo này như những gì tình cờ thấy, nằm trên lộ trình xuyên
Biển Đông của các thuyền Trung Hoa. Hơn thế nữa, có tài liệu còn mặc
nhiên công nhận sự liên hệ của các quần đảo đối với Việt Nam, nếu không
muốn nói rằng nó công nhận những quần đảo này là biên phòng của An Nam.
Thí dụ quyển Hải Lục của Vương Bỉnh Nam (1820-1842) viết:


“Lộ trình phía ngoài được nối liền với lộ trình phía trong bởi Vạn Lý
Trường Sa nằm giữa biển. Chiều dài của quần đảo khoảng vài chục ngàn
dặm. Nó là bức màn phòng thủ phía ngoài của An Nam”.[36]

Từ đó, ta có những nhận xét sau đây về những chứng cớ lịch sử về quyền khám phá của Trung Quốc:

Không có một quyển sách sử nào nói đến hai cái tên Xisha (Tây Sa) và
Nansha (Nam Sa), và không có một quyển sách nào nói đến chủ quyền của
Trung Quốc trên hai quần đảo này.[37]
Những sách sử địa của Trung Quốc nhắc đến rất nhiều tên, nào là Qianli
Chang sha, Wanlishitang, Quianlishitang, Jiuruluozhou, Qizhouyang,
Zizhousan. Và bây giờ Trung Quốc nói rằng tất cả những tên đó đều ám chỉ
Xisha và Nansha. Vì vậy, muốn xét đến những chứng cớ lịch sử này, thiết
tưởng cần phải có những chuyên viên để nghiên cứu tại chỗ và khẳng định
các tên này có đúng là Xisha và Nansha mà Trung Quốc nói tới hay không.


1.3.2 Hành xử chủ quyền

Những
dữ kiện mà Trung Quốc và các tác giả Trung Hoa đưa ra để chứng minh
mình hành xử chủ quyền trên hai quần đảo gồm có: những cuộc thanh tra,
những cuộc viễn chinh, và những di vật đào bới được từ các đảo.


Thanh tra và viễn chinh

Phần
lớn những bài viết về thanh tra và viễn chinh là sự khẳng định nhưng
không có đoạn sử nào được viện dẫn để chứng minh điều này.


*Trước nhà Nguyên

Đoạn
sau đây được trích, không phải từ sách sử nào cả, mà từ kết luận của
một viên chức chính quyền Trung Quốc, giáo sư Wang Hengjie thuộc Trung
tâm chuyên về các sắc tộc thiểu số, vào năm 1991, dựa trên những di tích
được đào bới trên đảo Xisha để kết luận rằng nhà Chu đã có những cuộc
viễn chinh trên quần đảo này:


“Chính
quyền nhà Chu thuộc thời Xuân Thu không những chinh phục những “dân man
rợ” ở phía Nam, mà cũng tổ chức những cuộc viễn chinh trên những đảo
của biển Nam Hải để chiếm làm đất Trung Hoa…”.[38]


Đây
chỉ là một kết luận của một viên chức nhà nước vào năm 1991, chứ không
phải từ sách sử khách quan. Nếu đã có những cuộc viễn chinh, và những
hoạt động khác thì tại sao lại không được ghi trong sách sử của Trung
Hoa – tương đương với những ghi chú trong sách sử của Việt Nam? Trung
Hoa vẫn tự hào là xứ văn minh và các dân tộc khác là “man di” mà tại sao
không biết ghi những hoạt động của nhà nước vào sách sử của mình, nếu
những hoạt động đó có thực? Tác giả Shen viết rằng trong quyển Hậu Hán thư
có ghi: Chen Mao được bổ nhiệm làm quan Thái thú ở tỉnh Giao Chỉ
(Jiaozchi) đã có những cuộc tuần tiễu và “thám thính trên (các đảo của)
biển Nam Hải”. Và ông ta đã ghi trong dấu ngoặc chữ viết bằng tiếng
Trung là “xing bu Zhanghai”.[39]
Đoạn này cho thấy không có chỗ nào nói đến Xisha và Nansha cả. Hơn nữa,
chữ “đảo” là do tác giả thêm vào trong dấu ngoặc, chứ bản viết tiếng
Trung mà ông ta chêm trong ngoặc kép (xing bu Zhanghai) không có chữ
“đảo”, mà chỉ là thám thính Zhanghai, tức là Nam Hải, mà thôi. Tác giả
Shen cũng viết rằng quyển Nam châu dị vật chí (Nanzhou Yiwu
Zhi) kể những thuỷ thủ nhà Hán đi viễn chinh từ bán đảo Malaixia trở về
Trung Hoa. Rồi ông trích câu trong Nam châu dị vật chí: “đi thuyền về
phía Đông Bắc, người ta gặp rất nhiều đảo nhỏ, đá ngầm, bãi cát ngầm,
trở nên rõ rệt tại biển Nam Hải, nơi đây nước cạn và có nhiều đá nam
châm”.[40] Như vậy, trong Nam Châu dị vật chíkhông
có chỗ nào nói đến viễn chinh trên đảo Xisha và Nansha, hoặc tuần hành
quanh đảo này, mà chỉ nói chung chung là họ đi thuyền qua Biển Đông mà
thôi, hoặc viễn chinh tại các vùng như Malaxia, Bornéo.


Chỗ
khác, tác giả Shen viết là chính quyền địa phương dưới triều đại nhà
Tấn đã hành xử chủ quyền trên đảo Xisha và Nansha bằng cách gửi tàu đi
tuần tiễu trên vùng biển quanh đó. Để chứng minh điều này, tác giả viện
dẫn quyển Quảng Đông tổng chí (General Record of Quangdong) do
Hao Yu-lin viết, có ghi là quan phụ trách những vấn đề biển Nam Hải thời
đó, có đi tuần tiễu và thám thính tại biển Nam Hải (xing bu ru hai).[41] Ở đây cũng như trên, tác giả Shen không trích thẳng đoạn nào trong quyểnQuảng Đông tổng chí ghi lại sự kiện trên, nên chúng ta không biết chính thức đoạn đó viết như thế nào.


Chỉ 4 chữ tiếng Trung được ghi trong dấu ngoặc là “xing bu ru hai”. Nếu
đây là nguyên văn trong sách sử, thì nó chỉ nói đến thám thính trên
biển Nam Hải (nếu thật tình là biển Nam Hải, vì chúng ta không biết đây
có phải là biển Nam Hải không hay là biển khác). Dù sự kiện đi tuần tiễu
thám thính có thật đi chăng nữa thì nó chỉ tổng quát tại biển mà Trung
Quốc nói là biển Nam Hải, chứ không nói là tuần tiễu quanh hai đảo Xisha
và Nansha. Mà nếu sự thật là biển Nam Hải, thì nó rộng mênh mông làm
sao mà biết được họ có tuần tiễu quanh hai quần đảo Xisha và Nansha hay
không. Và nếu có, có phải là tuần tiễu để thanh tra đảo với tư cách là
chủ của đảo hay chỉ là tuần tiễu vùng biển nói chung? Nguyên văn quyển
sách mà tác giả Shen nói có thực sự viết đó là những cuộc tuần tiễu hay
chỉ là đi thuyền ngang qua đó mà thôi?


Chỗ khác, tác giả Shen khẳng định là hai đảo được đặt dưới quyền quản
trị của huyện Qiongzhou (là Hải Nam bây giờ), nhưng không viện dẫn chứng
cớ lịch sử nào cả, mà footnote chỉ ghi là tài liệu của một cơ quan chính quyền của Trung Quốc năm 1992.[42]
Vả lại, nếu Trung Hoa thời đó có sáp nhập hai quần đảo và đảo Hải Nam
đi nữa, thì sự sáp nhập không cũng không đủ để tạo nên chủ quyền theo
tiêu chuẩn của luật quốc tế. Trung Quốc cũng cho rằng những di vật tìm
thấy trên các đảo chứng minh rằng dân Trung Hoa đã sống ở đó. Những di
tích lịch sử đào được trên đảo Xisha như bình, đồ gốm, và các di vật
khác từ những năm 420 cho đến thời nhà Thanh, cho thấy từ thế kỷ thứ V,
dân Trung Hoa đã sinh sống làm ăn trên các đảo vùng biển Nam Hải.[43]
Từ đó Trung Quốc lập luận rằng vì dân Trung Quốc sinh sống ở đó, nên
Trung Quốc có chủ quyền. Tuy nhiên, luật quốc tế không chấp nhận chủ
quyền trên một lãnh thổ được thụ đắc vì có dân sống trên đảo. Trên đảo
có rất nhiều loại dân sinh sống tuỳ theo mùa, kể cả dân Việt Nam chứ
không phải chỉ có dân Trung Hoa và tư nhân không có quyền chiếm hữu lãnh
thổ.


* Từ thời nhà Nguyên đến nay

Trung Quốc viện dẫn rằng Trung Quốc gửi một nhà chiêm tinh học đến đảo để tham quan và lấy kích thước đảo.[44]

-
Những cuộc viễn chinh được viện dẫn cho thời kỳ này thực ra là viễn
chinh đến những vùng khác như vùng Java chứ không phải tại Xisha hoặc
Nansha.


-
Đoạn được viện dẫn để chứng minh cho những cuộc tuần tiễu và viễn chinh
trên đảo Xisha và Nansha, trích từ quyển Nguyên Sử (Yuan Shi) như sau:


“…
thuyền đi qua Qizhou Yang và Wanlishitang, ngang Jiaozhi (Giao Chỉ) và
Zhangcheng (Quy Nhơn),… họ đổ bộ lên những đảo như Hundun Dayang, đảo
Ganlan, Jialimada, và Julan, họ đóng ở đó và chặt cây để làm những
thuyền nhỏ…”


Tác giả giải thích Qizhou Yang và Wanlishitang là Xisha và Nansha, còn Jialimada là Bornéo hiện nay[45]. Tuy nhiên, điểm này mâu thuẫn với đoạn trích trong quyển Hải Lục: “Vạn Lý Trường Sa nằm ở Đông Nam của Vạn Lý Thạch Đường”.[46]
Dựa vào câu trích dẫn trên trong quyển Hải Lục, nếu chấp nhận hai cái
tên này ám chỉ Nansha và Xisha, thì Vạn Lý Trường Sa phải là Nansha, còn
Vạn Lý Thạch Đường phải là Xisha. Thế nhưng, quyển Nguyên Sử
nói trên thì lại được diễn giải Vạn Lý Thạch Đường (Wanlishitang) tức là
Nansha, và Qizhou Yang tức là Xisha. Rút cuộc người đọc không biết đâu
là Nansha, đâu là Xisha nữa. Nếu ráp hai câu trích dẫn trên với câu
trong quyển Chu Phan Chí đã được nêu ở đoạn trên: “Phía Đông Hải Nam là
Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Đường”, thì Vạn Lý Thạch Đường có thể
là Macclesfield Bank. Tác giả Marwyn Samuels cũng khẳng định như vậy
(xem sách của Marwyn Samuels, tr. 18 và 19, Reference Note 31). Một điểm
khác có thể chứng minh Wanlishitang thực ra là Macclesfield Bank là câu
trích trên của quyển Nguyên Sử: “… thuyền đi qua Qizhou Yang
và Wanlishitang, ngang Jiaozhi (Giao Chỉ) và Zhangcheng (Quy Nhơn),…”.
Nếu theo thứ tự trước sau trong lộ trình thì Wanlishitang không thể là
Nansha, mà là Macclesfield Bank vì thuyền không thể đi ngang Nansha
trước khi đi ngang qua Giao Chỉ được. Hơn nữa, đoạn này cho thấy thuyền
chỉ đi qua Quizhou Yang và Wanlishitang, chứ không có chỗ nào nói là
tuần tiễu trên hai đảo Xisha và Nansha (nếu chấp nhận Qizhou Yang và
Wanlishitang là Xisha và Nansha).[47] Một đoạn khác được viện dẫn từ quyển Đảo Di Chí Lược
(Abridged Records of Islands and Barbarians) của Wang DaYuan mà tác giả
giới thiệu là một nhà hàng hải nổi tiếng thời Nguyên: “Gốc của Shitang
bắt nguồn từ Chaozhou. Nó ngoằn ngoèo như một con rắn dài nằm trên biển,
vắt ngang biển tới gần nhiều nước; nó được gọi theo lối bình dân là:
Wanlishitang. Theo sự ước đoán của tôi, nó dưới 10.000 lý… Ta có thể
nhận định được những nhánh của nó. Một nhánh vươn tới vùng Java, một
nhánh Boni và Gulidimen, và một nhánh vươn tới phía tây của biển về phía
Kunlun… Muốn an toàn thì nên tránh nó, vì đến gần rất nguy hiểm.”[48]
Cả đoạn này cũng thế, không thấy nói là quân của Trung Hoa đi tuần tiễu
quanh đảo hoặc đi viễn chinh đổ bộ lên đảo. Ngược lại, quần đảo được tả
như là một con quái vật, có phần ghê gớm và đáng sợ, đáng tránh xa là
đằng khác. Nếu tả một lãnh thổ mà mình xem như sở hữu của mình thì không
bao giờ văn lại xa lạ như vậy cả. Trung Quốc cũng lập luận rằng dưới
thời Minh, thế kỷ XV, nhà thám hiểm Cheng Ho (Trịnh Hoà) đã đi xuyên
Biển Đông 7 lần, và khi trở về đã đưa Hoàng Sa và Trường Sa vào bản đồ.[49]

Tuy nhiên, những chuyến đi này hoàn toàn không hề có sự chiếm hữu hai quần đảo nói trên.[50]Những
chuyến đi này không phải là viễn chinh để chiếm hữu đất mà nhằm thám
hiểm biển để biết địa hải, tìm mối giao thương, và phô trương lực lượng
với các quốc gia trong vùng, chư hầu của Trung Hoa.[51]

Tác giả Samuels kết luận rằng ngay trong thời ấy các đảo vẫn không được Trung Hoa chú ý tới.[52]

Để kết luận cho đoạn “chủ quyền lịch sử của Trung Quốc”, chúng ta có
thể nói rằng những đoạn viết trước thế kỷ XIII chỉ chứng minh được việc
các thuyền của Trung Hoa có đi lại trên biển Nam Hải. Những tại liệu này
không nói đến một tên đảo nào trong hai quần đảo cả. Những tài liệu đầu
tiên nêu tên đảo là những tài liệu cuối đời nhà Nguyên và dưới đời nhà
Tống (thế kỷ XIII). Tuy nhiên những tài liệu này nêu tên Thiên Lý Trường
Sa và Vạn Lý Thạch Đường – không biết có phải là Xisha và Nansha hay
không, nhất là Vạn Lý Thạch Đường – được tả nằm ở phía đông đảo Hải Nam,
thì chắc chắn không phải là Nansha, mà có thể là Macclesfield Bank. Dù
sao, những tài liệu này cũng chỉ chứng minh các thuyền của Trung Hoa có
đi ngang và tình cờ thấy các đảo này trên lộ trình xuyên Biển Đông.
Không có chữ nào cho thấy rằng Trung Hoa đã cho tàu đi tuần tiễu quanh
các đảo đó với tư cách là chủ của đảo, để bảo vệ đảo, như là biên giới
của mình. Cũng không có câu nào chứng minh rằng Trung Hoa đã tổ chức
những cuộc viễn chinh trên hai quần đảo Xisha và Nansha, mà chỉ nói đến
đi trấn an Giao Chỉ, viễn chinh ở Malaixia, Bornéo, Java. Theo luật quốc
tế cổ điển thì chỉ nhìn thấy đảo không cần đổ bộ lên là được chủ quyền
trên quyền khám phá. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này áp dụng cho các quốc gia
phương Tây ngày xưa ra đi để khám phá, để tìm đất mới. Còn Trung Quốc
chỉ đi ngang, tình cờ thấy, sau đó không hề chiếm hữu, không hề xem đảo
như là của mình, để rồi mấy thế kỷ sau, khi quốc gia khác chiếm, mới cho
rằng mình đã khám phá. Trường hợp như vậy cũng phải đặt câu hỏi là chỉ
tình cờ trông thấy, không hề có ý định chiếm đất thì có thực sự là quyền
khám phá theo nghĩa pháp lý hay không? Có thể nại quyền khám phá hay
không khi thiếu yếu tố tinh thần là ý chí muốn tìm thấy đất mới và xem
nó thuộc quyền sở hữu của mỉnh? Trường hợp Trung Hoa là “biết” chứ không
phải khám phá.[53] Đặt giả thuyết là Trung Hoa có quyền khám phá, thì quyền khám phá này mới là quyền ban đầu, quyền phôi thai (inchoate title),
bởi vì sau đó Trung Hoa không hề chiếm hữu đảo, dù là chiếm hữu tượng
trưng, không hề đổ bộ lên đảo, và không hề hành xử chủ quyền. Nói chung
là không hề xem đảo như là của mình. Toà án quốc tế đã phán quyết nhiều
lần rằng quyền khám phá phải được hoàn tất bởi sự chiếm hữu, trong một
thời gian tương đối, thì mới có hiệu lực.[54]
Giáo sư Marwyn Samuels đã phân tích thái độ của Trung Hoa thời đó. Ông
cho rằng chính sách của Trung Hoa cuối thời nhà Minh và thời nhà Thanh,
không quan tâm đến vùng biển ngoài khơi mà chỉ chú tâm đến việc trấn giữ
biên cương nội địa, vùng SinKiang (Tân Cương), Mông Cổ và biên giới
phía bắc, nên lực lượng hải quân rất kém.[55]
Dưới thời nhà Nguyên, là thời lực lượng hải quân hùng mạnh (thế kỷ
XIV), Trung Hoa cũng vẫn không quan tâm đến những đảo ngoài khơi biển
Đông, và không có ý định chiếm hữu chúng.[56]
Ngược lại, các thuyền bè còn sợ chúng và tránh không dám đến gần vì sợ
đá ngầm và nước cạn đã từng làm đắm bao nhiêu tàu của các nước khác. Các
thuỷ thủ Trung Hoa thời đó đã có câu tục ngữ truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác: “Trên đường đi ra thì sợ Thất Châu (tức là Thất Châu Dương
mà Trung Quốc bây giờ cho là Xisha), trên đường đi về thì hãi Côn Lôn.”[57]


Với
tâm lý thời đó như vậy làm sao Trung Hoa có thể xem đảo như sở hữu chủ
nhằm viễn chinh và tuần tiễu quanh đảo nhằm bảo vệ đảo được? Điều này
được kiểm chứng bởi những thái độ im lặng không phản đối sự hành xử chủ
quyền của Việt Nam, mặc dù Trung Hoa biết đến những hoạt động của Đội
Hoàng Sa và Đội Bắc Hải. Nó cũng được kiểm chứng bởi vụ đắm tàu La
Bellona và Imeji Maru (xem mục I của bài này). Tất cả những dữ kiện trên
cho thấy Trung Hoa không những không hành xử chủ quyền, không xem những
quần đảo như của Trung Hoa, mà lại còn minh thị và mặc thị công nhận
chủ quyền của Việt Nam.


2.Hiệp ước 1887 Trung
Hoa ngày xưa đã viện dẫn Hiệp ước Pháp – Thanh ký năm 1887 để khẳng
định rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về mình. Sau này, phát ngôn viên
của Trung Quốc và các tác giả Trung Quốc đều nhiều lần dùng Hiệp ước này
để khẳng định Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc. Thực sự, Hiệp ước này không
phải là hiệp ước phân chia những đảo ở ngoài xa khơi (high sea)
giữa toàn bộ nước Việt Nam và Trung Hoa mà chỉ ấn định biên giới giữa
miền Bắc Việt Nam và Trung Hoa. Ngày nay, trong những cuộc đàm phán,
Trung Quốc không nhắc đến Hiệp ước này nữa. Nhưng cho đến hiện tại,
không ít các tác giả mà phần lớn là những tác giả Trung Hoa sống ở nước
ngoài viết về vấn đề này, vẫn viện dẫn Hiệp ước 1887 như một trong những
lý lẽ chính để chứng minh là hai quần đảo thuộc về Trung Quốc. Và một
số các tác giả phương Tây, có lẽ vì ảnh hưởng dây chuyền, dùng những bài
viết trên, nên cũng kết luận là Hiệp ước này trao cho Trung Hoa chủ
quyền trên các đảo tranh chấp.[58] Vì vậy, thiết tưởng cũng nên làm sáng tỏ sự lầm lẫn này, vì ảnh hưởng dây chuyền của nó trong dư luận thế giới.


Một số tác giả trên đã trích đoạn sau đây của Hiệp ước để khẳng định
chủ quyền của Trung Quốc. “Từ Quảng Đông, những điểm tranh chấp nằm từ
phía đông đến phía tây bắc của Móng Cái, ngoài biên giới đã được hai
phái bộ xác định, có thể coi là thuộc về Trung Quốc. Những hòn đảo nằm ở
phía đông dọc đường kinh tuyến đông 105°43’ của Paris, có nghĩa là trục
bắc-nam đi qua điểm phía đông của đảo Tch’a Kou hay Ouan-Chan (Trà Cổ)
và làm thành đường biên giới, cũng thuộc về Trung Quốc. Các đảo Go-tho
và các đảo khác nằm phía tây của đường kinh tuyến thuộc về An Nam.” Các
tác giả trên lý luận rằng vì Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở phía đông kinh
tuyến Paris 105°43’ nên thuộc về Trung Quốc.[59]

Có tác giả cho rằng phải giải thích Hiệp ước theo sát nghĩa lời văn trong Hiệp ước.[60]
Thực ra, nếu giải thích sát nghĩa, thì phải hiểu Hiệp ước 1887 là một
hiệp ước phân chia biên giới giữa miền Bắc Việt Nam và Trung Hoa mà
thôi, chứ không phải chia các đảo ở ngoài xa khơi (high sea, haute mer),không thuộc vùng biển của miền Bắc Việt Nam. Chỉ cần nhìn tên của Hiệp ước cũng đủ để thấy điều đó. Tên Hiệp ước là “Convention relative à la delimitation de la frontière entre la Chine etle Tonkin.”[61]
Hơn nữa, Công ước Vienne về điều ước quốc tế có ấn định rằng một hiệp
ước phải được giải thích sát nghĩa những từ được dùng trong hiệp ước,
nhưng nếu phương pháp này đưa đến một sự “vô lý hay ngu xuẩn”, thì có
thể dùng những tài liệu hoặc hiệp ước khác, có liên quan đến hiệp ước
này, hoặc tìm hiểu mục đích của hiệp ước để giải thích những điểm không
rõ rệt.[62]
Dựa vào những điều khoản trên của Công ước Vienne, chúng ta có thể xét
Hiệp ước 1887 theo ba phương pháp: 1) xét sát nghĩa lời văn của Hiệp
ước, 2) xét toàn thể bản Hiệp ước, và 3) tìm hiểu mục đích của Hiệp ước.


2.1. Xét sát nghĩa lời văn bản Hiệp ước

Việc
này thật ra rất đơn giản trong trường hợp Hiệp ước 1887, như đã nói
trên, chỉ cần nhìn tên của Hiệp ước trên bản chính bằng tiếng Pháp, cũng
đủ thấy Hiệp ước này chỉ liên quan đến biên giới giữa miền Bắc Việt Nam
và Trung Hoa. Tiếng Pháp “Tonkin” là miền Bắc Việt Nam. Trong thời
thuộc địa, Pháp đã chia Việt Nam ra làm ba kỳ: miền Bắc gọi là Tonkin,
miền Trung gọi là An Nam hoặc vẫn giữ tên của cả nước Việt Nam, và miền
Nam gọi là Cochinchine. Các tác giả nêu trên tưởng rằng Tonkin là toàn
thể nước Việt Nam. Chữ “frontière”dùng trong Điều 2
của Hiệp ước cho thấy rõ ràng là kinh tuyến Paris 105°43’ là biên giới
biển, nhưng chỉ là biên giới biển thuộc miền Bắc Việt Nam (Tonkin), chứ
không phải là đường phân chia các đảo ngoài khơi xa, ngang với miền
Trung Việt Nam và miền Nam Việt Nam. Hiệp ước đã ấn định rõ chiều hướng
của biên giới đó là hướng bắc nam, và nó kéo ngang góc đông của đảo Trà
Cổ. Và vì đây là biên giới giữa Tonkin và Trung Hoa nên phải hiểu biên
giới này chấm dứt ở điểm nào ngang với ranh giới mà trước kia Pháp đã ấn
định giữa Tonkin và Annam (tức là ranh giới giữa miền Bắc Việt Nam và
miền Trung Việt Nam). Việc ấn định biên giới giữa miền Bắc Việt Nam và
Trung Hoa cũng dễ hiểu nếu nhìn vào cách Pháp chia và quản trị nước Việt
Nam thời đó. Nhằm thực hiện chính sách “chia để trị”, Pháp đã chia Việt
Nam thành ba kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau. Miền Bắc theo chế độ
bảo hộ, miền Trung – vì hệ thống vua và triều đình Huế vẫn còn (dù chỉ
là tượng trưng) – nên theo chế độ tự trị, và miền Nam thì theo chế độ
thuộc địa. Ba miền được xem gần như ba xứ riêng biệt. Vì vậy, vấn đề ấn
định biên giới chỉ là giữa Tonkin (miền Bắc) và Trung Hoa mà thôi, chứ
không phải miền Trung hoặc miền Nam, là chuyện dễ hiểu đối với chính
sách thuộc địa của Pháp thời đó. Nói tóm lại, dùng phương pháp giải
thích sát nghĩa cho thấy hai chữ “Tonkin” và “frontière
chỉ rõ đây là biên giới giữa miền Bắc Việt Nam và Trung Hoa. Nó bao gồm
biên giới đất và biên giới biển tức là vùng Vịnh Bắc Bộ.[63]


2.2. Xét toàn bộ bản Hiệp ước

Toàn
bộ bản Hiệp ước không có chỗ nào nói đến Hoàng Sa và Trường Sa. Toàn
văn bản Hiệp ước nói đến việc kẻ biên giới giữa miền Bắc Việt Nam và
Trung Hoa, và ấn định những điểm mà Uỷ ban kẻ biên giới của hai bên
Pháp-Thanh không đồng ý với nhau được, đó là hai đoạn biên giới Vân Nam
và Quảng Đông.


Các
tác giả nói trên chỉ viện dẫn đoạn liên quan tới đoạn biên giới Quảng
Đông. Tuy nhiên, trước đó, Hiệp ước có nói: “Những điểm mà Uỷ ban hai
bên không đồng ý với nhau được, và những điều chỉnh được dự trù ở Điều 3
của Hiệp ước 9-6-1885 được ấn định như sau: ở Quảng Đông, những điểm
tranh chấp…”.


Sau
đoạn nói đến biên giới Quảng Đông, tới đoạn ấn định biên giới Vân Nam:
“Trên vùng biên giới Vân Nam, đường biên giới được ấn định như sau:…”[64]
Nếu theo sự giải thích của Trung Hoa, là tất cả những đảo nào nằm ở
phía đông của kinh tuyến Paris 105°43’ thuộc về Trung Hoa, thì không
những Hoàng Sa, Trường Sa, mà tất cả các đảo ven bờ biển Việt Nam nằm ở
phía đông của kinh tuyến Paris 105°43’ đều thuộc về Trung Quốc. Sự giải
thích đưa đến một kết luận “vô lý hoặc ngu xuẩn” (absurd or unreasonable)
theo đúng như danh từ mà Công ước Vienne dùng. Do đó, chúng ta có thể
tìm hiểu mục đích của Hiệp ước 1887 bằng cách xét các tài liệu và các
hiệp ước liên quan đến Hiệp ước 1887.


2.3. Mục đích của Hiệp ước 1887

Nếu
đọc bản báo cáo của ông Dureau de Vaulcomte gửi cho Bộ Ngoại giao Pháp
giải thích Hiệp ước 1887, chúng ta càng thấy rõ hơn mục đích của Hiệp
ước là kẻ hai đoạn tranh chấp của biên giới miền Bắc Việt Nam và Trung
Hoa.[65]
Hiệp ước 1887 được ký thể theo Điều 3 của Hiệp ước 1885 là một hiệp ước
hữu nghị nhằm chấm dứt sự xung đột giữa hai bên Pháp – Thanh. Sau khi
Pháp đưa quân đến Việt Nam thì ba Tổng đốc: Quảng Đông, Quảng Tây và Vân
Nam cho quân vượt biên giới giữa Bắc Việt Nam và Trung Hoa. Vì vậy, để
chấm dứt tình trạng này và vãn hồi lại biên giới cũ, Pháp đã thoả thuận
với Trung Hoa ở Điều 3 của Hiệp ước 1885, là hai bên sẽ lập một Uỷ ban
kẻ biên giới gồm chuyên viên của cả hai bên để kẻ lại biên giới. Hiệp
ước 1885 cũng ấn định là nếu có điểm bất đồng giữa chuyên viên của hai
bên về bất cứ điểm nào liên quan đến việc kẻ biên giới thì Uỷ ban này sẽ
chuyển vấn đề sang cho chính quyền hai bên xét xử.[66]
Biên giới được kẻ chia ra làm ba đoạn: đoạn biên giới Quảng Tây, đoạn
biên giới Quảng Đông, và đoạn biên giới Vân Nam. Việc ấn định đoạn Quảng
Tây không gặp rắc rối gì, nhưng hai bên không thoả thuận được trong
việc kẻ hai đoạn biên giới Quảng Đông và Vân Nam. Từ đó mới có Hiệp ước
1887 do hai chính quyền ký để giải quyết hai đoạn biên giới trên. Tại
Quảng Đông, sự bất đồng liên quan đến vùng Paklung (Bạch Long) và những
đảo quanh đó. Vì có quân thổ phỉ từ Trung Hoa sang tập trung ở vùng này,
nên Pháp đã đưa quân đến chiếm đóng. Trung Hoa phản đối, đòi vùng này
là vùng của Trung Hoa. Do đó, mới xảy ra sự tranh chấp.[67]
Như vậy, sự tranh chấp không liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa. Lúc
đó, Trung Hoa chưa để ý đến hai quần đảo này, và Pháp cũng chưa biết
rằng Việt Nam đã có chủ quyền trên hai quần đảo đó. Vì thế lúc đó chưa
hề có tranh chấp trên hai quần đảo này. Cho nên, Pháp và Trung Hoa khi
ký kết Hiệp ước 1887 không hề nghĩ đến hai quần đảo này. Tóm lại, mục
đích của Hiệp ước 1887 là kẻ hai đoạn biên giới Quảng Đông và Vân Nam;
và đường biên giới kẻ theo Điều 2 của Hiệp ước 1887 chỉ giới hạn ở biên
giới miền Bắc Việt Nam và Vịnh Bắc Bộ mà thôi. Trung Quốc một mặt nói
rằng Hiệp ước 1887 áp dụng cho Hoàng Sa và Trường Sa, là những đảo nằm
ngoài khơi xa, nhưng mặt khác, khi bàn về biên giới vùng Bắc Bộ thì
Trung Quốc lại khẳng định rằng Hiệp ước này chỉ phân chia “những đảo ở
vùng Bắc Bộ”, chứ không phải là biên giới biển. Ngày 12 tháng 5 năm
1973, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hàn Niệm Long (Han Nian Long)
đã tuyên bố điều nói trên. Như vậy, Trung Quốc tự mâu thuẫn.[68]


3.Những lời tuyên bố của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Trung Quốc nói rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa vì những dữ kiện sau đây:

·
Ngày 15 tháng 6 năm 1956, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã nói rằng “theo những tài liệu của Việt Nam, trên phương
diện lịch sử, Xisha và Nansha thuộc lãnh thổ của Trung Quốc.”


·
Ngày 14 thágn 9 năm 1958, trong bối cảnh của thời kỳ chiến tranh lạnh,
khi Mỹ bắt đầu can thiệp vào Việt Nam, tuyên chiến với Trung Quốc, và
hạm đội Mỹ đi lại tuần tiễu trên eo biển Đài Loan, Trung Quốc bèn tuyên
bố lãnh hải của mình là 12 dặm. Nhân dịp này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng
gửi bức công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai nguyên văn như sau:


“Thưa đồng chí Tổng lý

Chúng
tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958
của Chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận
của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết
định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để
tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng
lý lời chào trân trọng”.[69]
· Ngày 9 tháng 5 năm 1965, nhân lúc Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt
Nam và ấn định những vùng chiến thuật, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
tuyên bố Xisha thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Những lời tuyên bố trên
không có hiệu lực vì trước năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không
quản lý những đảo này. Lúc đó, những đảo này nằm dưới sự quản lý của
Việt Nam Cộng hoà; mà các chính phủ Việt Nam Cộng hoà luôn luôn khẳng
định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo. Còn Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam cũng không tuyên bố điều gì có thể
làm hại đến chủ quyền này cả. Tác giả Monique Chemillier-Gendreau đã
viết như sau: “Dans ce contexte, les declarations ou prise de position
éventuelles des autorités du Nord Vietnam sont sans consequences sur le
titre de souveraineté. Il ne s’agit pas du gouvernement territorialement
competent à l’égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on
n’a pas d’autorité…”[70]
(Có thể dịch là: “Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc
lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì
đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên
quần đảo này. Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không
kiểm soát được…”). Một lý lẽ thứ hai nữa là đứng trên phương diện thuần
pháp lý, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không phải là một quốc
gia trong cuộc tranh chấp. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ
tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hoà và Philippin.
Như vậy, những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem như lời
tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.


Nếu đặt giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là một thì dựa trên luật quốc tế, những lời tuyên bố đó
cũng không có hiệu lực. Tuy nhiên, có tác giả đã nêu thuyết “estoppel” để khẳng định những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam, và Việt Nam bây giờ không có quyền nói ngược lại.[71]
Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho
những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết “estoppel”.
Điều 38 Quy chế Toà án Quốc tế không liệt kê những lời tuyên bố đơn
phương trong danh sách những nguồn gốc của luật pháp quốc tế. Estoppel
là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động
ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia. Câu tục
ngữ thường dùng để định nghĩa nó là “one cannot at the same time blow hot and cold.”[72]
Nhưng thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì
quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó. Thuyết estoppel
bắt nguồn từ hệ thống luật quốc nội của Anh, được thâu nhập vào luật
quốc tế. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể
hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại
cho quốc gia khác.[73] Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính:


1.
Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho
quốc gia phát biểu, và phải được phát biểu một cách minh bạch (clair et non equivoque).[74]


2.
Quốc gia nại “estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời
tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó,
hoặc không hoạt động. Yếu tố này trong luật quốc nội Anh-Mỹ gọi là “reliance”.


3.
Quốc gia nại “estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên
bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng
lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó.[75]


4.
Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát
biểu một cách liên tục và trường kỳ. Thí dụ: bản án “Phân định biển
trong vùng Vịnh Maine”, bản án “Những hoạt động quân sự và bán quân sự
tại Nicaragua”, bản án “Ngôi đền Preah Vihear”,…[76]


Ngoài
ra, nếu lời tuyên bố đơn phương có tính chất một lời hứa, nghĩa là quốc
gia tuyên bố mình sẽ làm hoặc không làm một việc gì, thì quốc gia phải
thực sự có ý định muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó, thực sự muốn thi
hành lời hứa đó.[77]
Thuyết estoppel với những điều kiện trên đã được án lệ quốc tế áp dụng
rất nhiều. Trong bản án “Thềm lục địa vùng Biển Bắc” giữa Cộng hòa Liên
bang Đức và Đan Mạch/Hà Lan, Toà án quốc tế đã phán quyết rằng estoppel
không áp dụng cho Cộng hòa Liên bang Đức, mặc dù quốc gia này đã có
những lời tuyên bố trong quá khứ nhằm công nhận nội dung của Công ước
Genève 1958 về thềm lục địa, vì Đan Mạch và Hà Lan đã không bị thiệt hại
khi dựa vào những lời tuyên bố đó. Trong bản án “Những hoạt động quân
sự và bán quân sự tại Nicaragua” giữa Nicaragua và Mỹ, Toà đã phán quyết
như sau: “… ‘Estoppel’ có thể được suy diễn từ một thái độ, những lời
tuyên bố của một quốc gia, nhằm chấp nhận một tình trạng nào đó; thái độ
hoặc lời tuyên bố không những phải được phát biểu một cách rõ rệt và
liên tục, mà còn phải khiến cho một hoặc nhiều quốc gia khác dựa vào đó
mà thay đổi hoạt động, và do đó phải chịu thiệt hại”.[78]
Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2/ và 3/ đã nêu
ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ
nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Và Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị
thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó. Lúc đó hai
dân tộc Việt Nam và Trung Hoa rất thân thiện, “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Những lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn do tình hữu nghị Hoa-Việt.[79]
Hơn nữa, lời văn của bản tuyên bố không hề nói rõ ràng minh bạch là
công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa. Bức công hàm chỉ nói:
“Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy (quyết
định ấn định lãnh hải 12 dặm của Trung Quốc), và sẽ chỉ thị cho các cơ
quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc…”. Lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có thể hiểu
là một lời hứa đơn phương, một lời tuyên bố ý định sẽ làm một việc gì (declaration d’intention).
Thật vậy, đây là một lời hứa sẽ tôn trọng quyết định của Trung Quốc
trong việc ấn định lãnh hải của Trung Quốc, và một lời hứa sẽ ra lệnh
cho cơ quan công quyền của mình tôn trọng lãnh hải đó của Trung Quốc.
Một lời hứa thì lại càng khó ràng buộc quốc gia đã hứa. Toà án Quốc tế
đã ra thêm một điều kiện nữa để ràng buộc một lời hứa: đó là ý chí thực sự
của một quốc gia đã hứa. Nghĩa là quốc gia đó có thực sự muốn bị ràng
buộc bởi lời hứa của mình hay không. Để xác định yếu tố “ý chí” (intention de se lier), Toà xét tất cả những dữ kiện xung quanh lời tuyên bố đó, xem nó đã được phát biểu trong bối cảnh, trong những điều kiện nào (circonstances).
Hơn nữa, nếu thấy quốc gia đó có thể tự ràng buộc mình bằng cách ký
thoả ước với quốc gia kia, thì lời tuyên bố đó là thừa, và Toà sẽ kết
luận là quốc gia phát biểu không thực tình có ý muốn bị ràng buộc khi
phát biểu lời tuyên bố đó. Vì vậy, lời tuyên bố đó không có tính chất
ràng buộc. Trong bản án “Những cuộc thí nghiệm nguyên tử” giữa Úc/Tân
Tây Lan và Pháp, Pháp đã tuyên bố là sẽ ngừng thí nghiệm nguyên tử. Toà
án đã phán quyết rằng Pháp bị ràng buộc bởi lời hứa vì Pháp thực sự có ý
muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó.[80]


Trong
trường hợp Việt Nam, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi tuyên bố sẽ tôn trọng
lãnh hải của Trung Quốc, không hề có ý định nói đến vấn đề chủ quyền
trên Hoàng Sa và Trường Sa. Ông đã phát biểu những lời tuyên bố trên
trong tình trạng khẩn trương, chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm
đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan và đe doạ Trung Quốc. Ông
đã phải lập tức lên tiếng để ủng hộ Trung Quốc nhằm gây một lực lượng
chống đối lại với mối đe doạ của Mỹ.[81]
Lời tuyên bố năm 1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như
vậy. Động lực của lời tuyên bố đó là tình trạng khẩn trương, nguy ngập ở
Việt Nam. Đây là những lời tuyên bố có tính chính trị, chứ không phải
pháp lý.


Nếu xét yếu tố liên tục và trường kỳ thì ba lời tuyên bố của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa cũng không hội đủ tiêu chuẩn này. Estoppel chỉ đặt ra
nếu chấp nhận giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là một; và cả Pháp trong thời kỳ thuộc địa, và Việt
Nam Cộng hoà trước năm 1975 cũng là một đối với Việt Nam hiện thời. Nếu
xem như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia riêng biệt với Việt
Nam hiện thời, thì estoppel không áp dụng, vì như đã nói ở trên, lời
tuyên bố sẽ được xem như lời tuyên bố của một quốc gia không có quyền
kiểm soát trên lãnh thổ tranh chấp. Như vậy, nếu xem Việt Nam nói chung
như một chủ thể duy nhất từ xưa đến nay, thì ba lời tuyên bố của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ là một sự phát biểu có ý nghĩa chính trị trong
đoản kỳ thời chiến, so với lập trường và thái độ của Việt Nam nói chung
từ thế kỷ XVII đến nay. Tóm lại, những lời tuyên bố mà chúng ta đang
phân tích thiếu nhiều yếu tố để có thể áp dụng thuyết estoppel. Yếu tố
“reliance” (tức là quốc gia kia có dựa vào lời tuyên bố của quốc gia này
mà bị thiệt hại), và yếu tố “ý chí” (tức là quốc gia phát biểu lời hứa
có ý muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó) rất quan trọng. Không có
“reliance” để giới hạn sự áp dụng của estoppel thì các quốc gia sẽ bị
cản trở trong việc hoạch định chính sách ngoại giao. Các quốc gia sẽ
phải tự ép buộc cố thủ trong những chính sách ngoại giao lỗi thời.[82]
Khi điều kiện chung quanh thay đổi, chính sách ngoại giao của quốc gia
kia thay đổi, thì chính sách ngoại giao của quốc gia này cũng phải thay
đổi. Các quốc gia đổi bạn thành thù và đổi thù thành bạn là chuyện
thường. Còn những lời hứa đơn phương trong đó quốc gia không thật tình
có ý muốn bị ràng buộc, thì nó chẳng khác gì những lời hứa vô tội vạ,
những lời hứa suông của các chính khách, các ứng cử viên trong cuộc
tranh cử.[83] Trong môi trường quốc tế, nguyên tắc “chủ quyền quốc gia” (état souverain) rất quan trọng. Ngoại trừ tục lệ quốc tế và những điều luật của Jus Congens,
không có luật nào ràng buộc quốc gia ngoài ý muốn của mình, khi mà quốc
gia này không gây thiệt hại cho quốc gia nào khác. Vì vậy ý chí của
quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định tính chất
ràng buộc của một lời hứa đơn phương.


III. KẾT LUẬN

Những
phân tích trên cho thấy lý lẽ của Việt Nam mạnh hơn của Trung Quốc, vì
Việt Nam đã sử dụng hai quần đảo liên tục trong ba thế kỷ, sử dụng một
cách hoà bình không có sự phản đối của bất cứ một quốc gia nào, kể cả
Trung Quốc. Không những thế, sách sử của Trung Quốc lại còn công nhận
rằng những quần đảo đó là vòng đai phòng thủ của Việt Nam, và qua thái
độ của họ trong thời gian đó thì Trung Quốc cũng đã mặc thị công nhận
chủ quyền của Việt Nam trên những quần đảo này. Nếu cho rằng Chúa Nguyễn
đã khai thác các đảo từ đầu thế kỷ XVII, sau gần 100 năm, chủ quyền
lịch sử của Việt Nam đã hoàn tất. Chủ quyền lịch sử đó lại được củng cố
thêm qua sự chiếm hữu của vua Gia Long và Minh Mạng. Đồng thời, chủ
quyền vẫn được hành xử liên tục qua sự khai thác và quản trị của hai Đội
Hoàng Sa và Bắc Hải, là những bộ phận của nhà nước.

macsuong

macsuong
,
,

c)
Đội Hoàng Sa và Bắc Hải chỉ hoạt động và thám thính các đảo phía bắc
của dãy Trường Sa, tức Northeast Cay, Southeast Cay, South Reef và
Thitu; và người vẽ bản đồ, vì kỹ thuật kém nên vẽ các đảo đó gần với
quần đảo Hoàng Sa.


d)
Đội Hoàng Sa và Bắc Hải đã hoạt động ở những đảo nói trên của quần đảo
Trường Sa và cả dãy đảo phía dưới các đảo này tức Xubi Reef (đá Subi),
Loaita Island (đảo Loai Ta), Itu Aba Island (đảo Ba Bình), Great
Discovery Reef (đá Lớn), Spratly Island (đảo Trường Sa), … nhưng vì kỹ
thuật kém, nên vẽ dãy đảo này gần với quần đảo Hoàng Sa. Dựa vào những
dữ kiện vừa nêu, thì giả thuyết thứ nhất (a) đáng loại bỏ trước tiên, vì
số đảo, hình dạng của quần đảo Hoàng Sa, địa điểm của nó so với những
tỉnh trong đất liền, tất cả những chi tiết này như được vẽ trên Bản đồ 1
và 2 không ăn khớp với thực tế trên Bản đồ 3 và 4. Chúng ta cũng không
nghĩ rằng tác giả bản Đại Nam nhất thống toàn đồ có thể vì kỹ thuật kém nên kéo dài Hoàng Sa xuống tận Cam Ranh. Vì Đại Nam thư lục chính biên,
quyển 165, có nói rõ một trong những mục đích của những chuyến công tác
của Đội Hoàng Sa và Bắc Hải là gạch lộ trình để ra mỗi đảo, và ấn định
rõ vị trí của mỗi đảo so với mỗi tỉnh ngang với nó trong đất liền. “Phải
ấn định rõ cửa khẩu nào đưa ra mỗi đảo. Mỗi lộ trình phải được ước lượng bằng “dặm”.[25]
Như vậy, tác giả của bản đồ này không thể nào nhầm lẫn mà ấn định đảo
cuối của dãy Hoàng Sa nằm ngang với Cam Ranh. Giả thuyết thứ ba © không
giải thích được hình dạng của chuỗi đảo trên bản đồ 1. Giả thuyết thứ
hai ( c) và thứ tư (d) có lẽ sát sự thực vì nó giải thích được hình dạng
của chuỗi đảo trên Bản đồ 1, vị trí của đảo ngang với vùng Khánh Hoà,
Cam Ranh. Hình chuỗi nằm xuôi dài xuống của các đảo ở đoạn CD, khiến
chúng ta nghiêng về giả thuyết thứ tư (d) hơn. Tuy nhiên, giả thuyết thứ
ba © cũng có thể áp dụng được nếu cho rằng Đội Hoàng Sa và Bắc Hải đã
biết toàn thể hoặc đa số các đảo trên dãy Trường Sa, nhưng khi đưa lên
bản đồ chỉ vẽ được một số đảo ở phía Tây mà thôi. Như vậy, sẽ ăn khớp
với số đảo là 130 đã được ghi trong những sách sử nói trên. Vả lại, Đại Nam thực lục chính biên
cũng có nói trong tờ trình của Bộ Công, là quần đảo rất rộng nên chỉ vẽ
được một số đảo giới hạn. Tờ trình cũng công nhận là bản đồ vẽ không
được chính xác.


“Quần
đảo Hoàng Sa, biên giới biển của nước ta, là một địa điểm chiến lược
rất quan trọng… Những đoàn công tác đã được phái đi để lấy kích thước vẽ
bản đồ, nhưng vì quần đảo quá rộng, nên chỉ mới vẽ được một đảo trên bản đồ, mà cũng không được chính xác và chi tiết
như mong muốn…”. Vì vậy, tờ trình của Bộ Công đã đề nghị Vua cho công
tác ra các đảo mỗi năm: “Ta nên gửi đoàn công tác ra mỗi năm để thám sát
toàn diện quần đảo…”.[26]


Bản
đồ vẽ quần đảo Trường Sa gần với quần đảo Hoàng Sa hơn trong thực tế
chỉ vì kỹ thuật thời đó còn kém, không biết tỷ lệ đưa lên giấy. Bản đồ
của Trung Hoa và của phương Tây thời đó cũng mang khuyết điểm này. Hơn
nữa, vị trí của hai quần đảo nằm trên cùng một kinh tuyến 111°;[27]
quần đảo Trường Sa nằm hơi nhích sang phía đông nam, nên trên thực tế
cũng không xa nhau lắm, và vì thời đó người ta không có được ý niệm
chính xác về kích thước và tỷ lệ phải tuân theo khi vẽ bản đồ, thì có
khuynh hướng vẽ hai quần đảo gần nhau hơn thực tế, cũng dễ hiểu. Dù sao,
giả thuyết thứ hai ( b ) thứ ba © hoặc thứ tư (d) cũng đều chứng minh
được Việt Nam ít ra cũng có hành xử chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.


Những
bản đồ của phương Tây thời xưa cũng không phân biệt được quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa nên đã vẽ cả hai thành một khối gọi là Hoàng
Sa. Thí dụ, bản đồ của anh em Van Langren, 1595, bản đồ Les établissement et point de penetration européen en Extrême Orient au 18è siècle (Bản đồ 8 và 9).


Bản đồ 8
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Hinh8

Bản đồ 9
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Hinh9

Bản đồ 10
Đại Việt đời Hồng Đức
(Bản vẽ lại cho dễ đọc các địa danh)
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Hinh10

Bản đồ 11
Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (Lê Trung Hưng)
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Hinh11

Trước
thời Minh Mạng, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng được xem như
một quần đảo, nên gọi hai quần đảo là Hoàng Sa, có khi gọi là Vạn Lý
Trường Sa. Nhưng sau khi các đoàn công tác được Vua Minh Mạng ra lệnh
lấy kích thước và thám sát cả hai quần đảo, thì bản đồ được vẽ sau đó
(tức bản Đại Nam nhất thống toàn đồ), mới ghi rõ ràng hai tên
khác nhau cho hai quần đảo. Nếu trên Bản đồ 2, chúng ta lấy bút khoanh
cụm đảo ở đoạn A-B lại, và cũng khoanh chuỗi đảo ở đoạn B-C lại, thì ta
sẽ thấy hai quần đảo riêng rẽ, với hai cái tên riêng rẽ (xem Bản đồ 5).


Do
đó, ta có thể kết luận rằng Việt Nam đã hành xử chủ quyền trên cả hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy mới có sự hiện diện của Đội Bắc
Hải được cử đi khai thác và quản lý những đảo Trường Sa, Côn Lôn, vùng
Hà Tiên,… (thể theo quyển Phủ Biên tạp lục, quyển 2). Người ta có thể
thắc mắc tại sao Đội Bắc Hải đảm trách Trường Sa, Côn Lôn, Hà Tiên, là
những vùng phía Nam, mà lại gọi là Bắc Hải. Sử gia Võ Long Tê có giải
thích rằng Bắc Hải theo nghĩa chữ nho cũng có thể là “xa xôi”. Như vậy
“Bắc Hải” có thể hiểu là vùng biển xa xăm.[28] Nghĩa thứ hai mà ta có thể giải thích là Đội Bắc Hải kiêm trách cả vùng biển miền Bắc lẫn những đảo ở phía Nam. Vì quyển Phủ Biên tạp lụccó ghi rằng Đội Bắc Hải hoạt động ở “… vùng Biển Bắc, những đảo Côn Lôn, Cù Lao, vùng Hà Tiên và Cồn Tự…”.[29]
Nếu theo giả thuyết trên thì ta phải hiểu là hai Đội Hoàng Sa và Bắc
Hải bổ túc cho nhau chứ không có sự phân chia vùng hoạt động giữa hai
Đội. Theo như ghi chép trong Phủ Biên tạp lục thì sự phân chia
giữa hai Đội là ở sản vật được khai thác: Đội Bắc Hải gần như chỉ thu
thập các hải sản, còn Đội Hoàng Sa thu thập cả các hoá vật, vàng, bạc,…
do tàu đắm để lại. Thêm một nhận xét nữa là: Trường Sa nằm ở gần đảo Côn
Lôn nên không lẽ thời đó, Đội Bắc Hải hoặc dân đánh cá Việt Nam từ
trước nữa đã khám phá và khai thác đảo Côn Lôn mà lại không hề biết đến
đảo Trường Sa. Nhất là tàu thuyền của Việt Nam thời đó là một lực lượng
hùng mạnh khiến nhiều nhà thám hiểm phương Tây phải xác nhận điều đó.
Thí dụ, ông Gentil de la Barbinais đã viết trong quyển Nouveau voyage autour du monde
(xuất bản vào năm 1738) như sau: “Quoique jusqu’ici les Cochinchinois,
aient attaqué ou se soient défendus par terre, les emplois de I’armée
navale sont plus recherchés, comme étant les plus honorifiques. Le Roi
de Cochinchine entretient 150 galères. À la dernière revue des galères,
qui se fit en 1678, il y avait 131 galères…”[30]
(Có thể dịch là: “Mặc dù dân Việt Nam đến bây giờ vẫn tấn công hoặc
phòng thủ trên đất liền, việc sử dụng lực lượng hải quân của họ tinh vi
hơn, và có thể nói là xuất sắc nhất. Vua Việt Nam có 150 chiến thuyền.
Nhân cuộc biểu trương chiến thuyền gần nhất, được tổ chức vào năm 1678,
có tới 131 chiến thuyền…”).

macsuong

macsuong
,
,

Chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và trường Sa

Tác giả: Từ Đặng Minh Thu
Nguồn: Tạp chí thời đại

Nhắc đến Biển Đông, không ai không nghĩ đến hai cái tên rất đẹp Hoàng Sa và
Trường Sa. Tiếc thay hai cái tên đó lại gắn liền với những gì đi ngược
với thiện, mỹ, hoà, vì hai quần đảo xa xôi này đã và đang là đối tượng
của một cuộc tranh chấp sôi nổi giữa các quốc gia và lãnh thổ trong
vùng. Cuộc tranh chấp đã kéo dài gần một thế kỷ nhưng đến nay vẫn chưa
giải quyết được, và ngày càng trầm trọng hơn, đang là mối đe doạ cho hoà
bình ở vùng Đông Nam Á.

Khi
thì bùng nổ, khi thì lắng dịu, cuộc tranh chấp này mang mọi hình thức
đấu tranh, từ đấu tranh chính trị, ngoại giao đến đấu tranh vũ lực. Các
quốc gia tranh chấp cũng thay đổi tuỳ theo thời cuộc. Lúc đầu chỉ có
Pháp và Trung Hoa, tiếp sau đó, Nhật Bản và Philippin cũng nhảy vào đòi
quyền lợi. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản bại trận rút lui
khỏi cuộc tranh chấp, Pháp rời Đông Dương, Trung Hoa thay đổi chính
quyền, thì các quốc gia và vùng lãnh thổ tranh chấp gồm Việt Nam Cộng
hoà, Trung Quốc, Đài Loan và Philippin. Sau khi Việt Nam thống nhất thì
cuộc tranh chấp tiếp diễn giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và ba quốc gia và vùng lãnh thổ kia. Ngày nay, từ khi “Luật Biển mới” ra
đời, tầm quan trọng của 2 quần đảo tăng thêm, thì số quốc gia tranh
chấp cũng tăng theo. Malaixia và Brunây cũng đòi quyền lợi trên quần đảo
Trường Sa. Với Công ước Luật Biển mới, quốc gia nào nắm những quần đảo
này không những được hưởng lãnh hải quanh đảo mà cả vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa quanh quần đảo. Tuy nhiên, vấn đề phân chia lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa các quốc gia chưa thực hiện
được khi chưa biết hai quần đảo này thuộc về ai. Vì vậy, vấn đề xác
định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa càng quan trọng. Bài
viết này sẽ phân tích một số lý lẽ chính mà Việt Nam và Trung Quốc đưa
ra để khẳng định chủ quyền của mình, vì đây là hai quốc gia chính trong
cuộc tranh chấp.

I.DIỄN BIẾN CUỘC TRANH CHẤP

Diễn
biến cuộc tranh chấp sẽ được trình bày vắn tắt theo thứ tự thời gian,
qua ba giai đoạn: trước thời Pháp thuộc, trong thời Pháp thuộc, và sau
thời Pháp thuộc.

1. Trước thời Pháp thuộc

Những
người đánh cá Trung Hoa và Việt Nam sống trên các đảo tuỳ theo mùa
nhưng từ bao giờ thì không thể xác định được. Đầu thế kỷ XVII: Chúa
Nguyễn tổ chức khai thác trên các đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải có
nhiệm vụ ra đóng ở hai quần đảo, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn
lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo, và những hoá vật do
lấy được từ những tàu đắm.

Năm 1753: Có 10 người lính của Đội Bắc Hải đến quần đảo Trường Sa: 8
người xuống đảo, còn 2 người thì ở lại canh thuyền. Thình lình cơn bão
tới và thuyền bị trôi dạt đến cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Chính quyền
Trung Hoa cho điều tra, và khi biết các sự kiện, đã cho đưa 2 người
lính Việt Nam về.[2]
- Năm 1816: Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình.

· Năm 1835: Vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng
cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai
thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo, và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ
hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi Pháp nhảy vào
Đông Dương.

2. Thời Pháp thuộc

- Năm 1884: Hiệp ước Huế áp đặt chế độ thuộc địa.

- 9-6-1885: Hiệp ước Pháp – Thanh Thiên Tân là một hiệp ước hữu nghị, chấm dứt xung đột giữa Pháp

và Trung Hoa.


- 26-6-1887: Hiệp ước Pháp – Thanh ấn định biên giới giữa Bắc Việt Nam và Trung Hoa.

- 1895 – 1896: Vụ La Bellona và Imeji Maru.


hai chiếc tàu La Bellona và Imeji Maru bị đắm gần Hoàng Sa, một chiếc
bị đắm năm 1895, và chiếc kia bị đắm năm 1896. Những người đánh cá ở Hải
Nam bèn thu lượm đồng từ hai chiếc tàu bị đắm. Các công ty bảo hiểm của
hai chiếc tàu này phản đối chính quyền Trung Hoa. Chính quyền Trung Hoa
trả lời là Trung Hoa không chịu trách nhiệm, vì Hoàng Sa không phải là
lãnh thổ của Trung Hoa, và cũng không phải của An Nam.[3]

· Năm 1899: Toàn quyền Paul Doumer đề nghị chính phủ Pháp xây ngọn hải đăng nhưng không thành vì tài chính bị thiếu.

· Năm 1909: Tổng đốc Lưỡng Quảng ra lệnh thám thính quần đảo Hoàng Sa.

· Năm 1920: Mitsui Busan Kaisha xin phép Pháp khai thác quần đảo Hoàng Sa. Pháp từ chối.

· Bắt đầu năm 1920: Pháp kiểm soát quan thuế và tuần tiễu trên đảo.

· 30-3-1921: Tổng đốc Lưỡng Quảng sáp nhập Hoàng Sa với Hải Nam. Pháp không phản đối.

·
Bắt đầu từ năm 1925: Tiến hành những thí nghiệm khoa học trên đảo do
Dr. Krempt, Giám đốc Viện Hải dương học Nha Trang tổ chức.

· 8-3-1921: Toàn quyền Đông Dương tuyên bố hai quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Pháp.

· Năm 1927: Tàu De Lanessan viếng thăm quần đảo Trường Sa.

· Năm 1930: Ba tàu Pháp: La Malicieuse, L’alerte và L’Astrobale chiếm quần đảo Trường Sa và cắm cờ Pháp trên quần đảo này.

·
Năm 1931: Trung Hoa ra lệnh khai thác phân chim tại quần đảo Hoàng Sa,
ban quyền khai thác cho Công ty Anglo-Chinese Development. Pháp phản
đối.

·
Năm 1932: Pháp chính thức tuyên bố An Nam có chủ quyền lịch sử trên
quần đảo Hoàng Sa. Pháp sáp nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Thừa Thiên.



· Năm 1933: Quần đảo Trường Sa được sáp nhập với tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng
đề nghị với Trung Hoa đưa vấn đề ra Toà án Quốc tế nhưng Trung Hoa từ
chối.

·
Năm 1938: Pháp cho đặt bia đá, xây hải đăng, đài khí tượng và đưa đội
biên phòng người Việt ra để bảo vệ đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) của quần
đảo Hoàng Sa.

· Năm 1946: Nhật bại trận phải rút lui. Pháp trở lại Pattle (An Vĩnh) nhưng vì chiến cuộc ở Việt Nam nên phải rút.

·
Năm 1947: Quân của Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Woody (đảo Phú Lâm)
của quần đảo Hoàng Sa. Pháp phản đối và gửi quân Pháp - Việt trở lại
đảo. Hai bên đàm phán tại Paris. Pháp đề nghị đưa ra Trọng tài quốc tế
nhưng Trung Hoa từ chối.

· Năm 1950: Quân của Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Woody.

·
Năm 1951: Tại Hội nghị San Francisco, Nhật tuyên bố từ bỏ tất cả các
đảo, Đại diện chính phủ Bảo Đại là Thủ tướng Trần Văn Hữu khẳng định chủ
quyền của Việt Nam trên hai quần đảo mà không có nước nào lên tiếng
phản đối.

3. Sau thời Pháp thuộc

· Năm 1956: Quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương. Đội canh của Pháp trên đảo Pattle được thay thế bởi đội canh của Việt Nam.

Trung
Quốc cho quân chiếm phía Đông của quần đảo Hoàng Sa, tức nhóm
Amphitrite (Nhóm Đông). Trong khi phía Tây, nhóm Crescent (Lưỡi Liềm),
vẫn do quân Việt Nam đóng trên đảo Pattle nắm giữ.

· 1-6-1956: Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn Mẫu xác nhận lại chủ quyền của Việt Nam trên cả hai quần đảo.

· 22-8-1956: Một đơn vị hải quân của Việt Nam Cộng hoà cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia đá.
· Năm 1961: Việt Nam Cộng hoà sáp nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Quảng Nam.

· Năm 1973: Quần đảo Trường Sa được sáp nhập vào tỉnh Phước Tuy.

· Năm 1974: Trung Quốc oanh tạc quần đảo Hoàng Sa và chiếm các đảo do quân Việt Nam Cộng hoà đóng.

· Năm 1975: Quân đội Nhân dân Việt Nam thay thế quân đội của Việt Nam Cộng hoà tại quần đảo Trường Sa.

· Năm 1977: Việt Nam tuyên bố lãnh hải, kể cả lãnh hải của các đảo.

· Trong thời gian này, nhiều quốc gia khác cũng đã chiếm một số đảo của quần đảo Trường Sa.

·
Năm 1988: Lần đầu tiên Trung Quốc gửi quân tới quần đảo Trường Sa. Quân
của Trung Quốc đụng độ với Hải quân Việt Nam. Trên 70 người lính Việt
Nam hy sinh. Trung Quốc đã chặn không cho tàu mang cờ Chữ Thập Đỏ ra cứu
quân Việt Nam.

· Năm 1989: Trung Quốc chiếm thêm một đảo.

· Năm 1990: Trung Quốc đề nghị khai thác chung quần đảo Trường Sa.

· Năm 1992: Trung Quốc chiếm thêm một số đảo nữa.

· Năm 1994: Đụng độ giữa Việt Nam và một chiếc tàu Trung Quốc nghiên cứu cho Công ty Crestone.

Hiện
nay Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Còn quần đảo Trường
Sa thì do sáu quốc gia và lãnh thổ chiếm giữ là: Việt Nam, Trung Quốc,
Đài Loan, Philippin, Malaixia và Brunây.

(Tapchithoidai)

II.PHÂN TÍCH LẬP LUẬN CỦA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC


lẽ mà cả Việt Nam và Trung Quốc đưa ra là chủ quyền lịch sử, cả hai
quốc gia đều khẳng định mình có chủ quyền từ lâu đời được củng cố và
chứng minh bằng lịch sử. Ngoài ra, Trung Hoa ngày xưa, cũng như Đài Loan
ngày nay, và nhiều tác giả thường viện dẫn Hiệp uớc Pháp – Thanh 1887
để khẳng định hai quần đảo thuộc về Trung Quốc. Vì Trung Quốc và Đài
Loan đã đồng ý nói chung một tiếng nói trong vụ tranh chấp này, do đó,
đây cũng có thể là một lý lẽ của Trung Quốc. Thời kỳ gần đây, từ khi
tranh chấp với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trung Quốc đã viện
dẫn thêm một lý lẽ, là những lời tuyên bố trước đây của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Phần này sẽ phân tích ba lý lẽ nói trên.

1. Chủ quyền lịch sử

Cả
Việt Nam và Trung Quốc đều nại rằng mình đã khám phá, chiếm hữu và hành
xử chủ quyền lâu đời. Chúng ta thử phân tích lý lẽ chủ quyền lịch sử
của mỗi bên có đạt đủ tiêu chuẩn của luật quốc tế hay không. Trước tiên,
chúng ta hãy tìm hiểu luật quốc tế chi phối sự chiếm hữu lãnh thổ vô
chủ như thế nào.

1.1. Sự chiếm hữu lãnh thổ vô chủ theo luật quốc tế.

Một sự chiếm hữu lãnh thổ, muốn hợp pháp, phải hội đủ ba điều kiện:

Một là, điều kiện liên quan đến đối tượng của sự chiếm hữu: lãnh thổ được chiếm hữu phải là đất vô chủ (res nullius), hoặc là đã bị chủ từ bỏ (res derelicta).

Hai là,
tác giả của sự chiếm hữu phải là một quốc gia. Chiếm hữu phải được thực
hiện bởi chính quyền của quốc gia muốn chiếm hữu hoặc bởi đại diện của
chính quyền chiếm hữu nhân danh quốc gia mình. Tư nhân không có quyền
chiếm hữu.

Ba là, phương pháp chiếm hữu:

Phương
pháp chiếm hữu đã trải qua nhiều thay đổi theo thời gian. Trước năm
1884, quyền chiếm hữu do Đức Giáo Hoàng ban cho. Từ thế kỷ VIII đến XV,
Đức Giáo Hoàng chia đất giữa hai quốc gia là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Đến thế kỷ XVI, khi nhiều quốc gia khác cũng bắt đầu tham gia vào công
cuộc đi tìm đất mới, thì phương cách chia đất bởi Đức Giáo Hoàng bị chỉ
trích, và người ta đặt ra một phương thức mới cho sự chiếm hữu lãnh thổ,
đó là quyền khám phá. Quốc gia nào khám phá ra mảnh đất đó trước thì
được chủ quyền trên đất đó. Khám phá đây có nghĩa là chỉ nhìn thấy đất
thôi, không cần đặt chân lên đất đó, cũng đủ để tạo chủ quyền. Sau này,
điều kiện đó được xem như không đủ, nên người ta đưa thêm một điều kiện
nữa, là sự chiếm hữu tượng trưng. Quốc gia chiếm hữu phải lưu lại trên
lãnh thổ một vật gì tượng trưng cho ý chí muốn chiếm hữu của mình: cờ,
bia đá, đóng cọc, hoặc bất cứ một vật gì tượng trưng cho chủ quyền của
quốc gia chiếm hữu. Đến thế kỷ XVIII, người ta thấy chiếm hữu tượng
trưng cũng không đủ để chứng tỏ chủ quyền của một quốc gia. Vì vậy, đến
năm 1885, Định ước Berlin nhằm giải quyết vấn đề chia đất ở châu Phi, ấn
định một tiêu chuẩn mới sát thực hơn cho sự chiếm hữu lãnh thổ. Đó là
sự chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền trên lãnh thổ được chiếm hữu.
Ngoài ra, Định ước Berlin cũng ấn định rằng quốc gia chiếm hữu phải
thông báo sự chiếm hữu của mình cho các quốc gia khác biết. Nguyên tắc
chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền sau này đã trở thành tập quán
quốc tế và được làm cơ sở cho sự chiếm hữu lãnh thổ vô chủ trong luật
quốc tế hiện đại. Tuy nhiên, yếu tố thông báo không phải là một tập quán
quốc tế, nó chỉ áp dụng riêng cho trường hợp chiếm hữu đặt trong phạm
vi của Định ước Berlin mà thôi.

Ngày
nay theo luật quốc tế, sự chiếm hữu lãnh thổ phải bao gồm cả hai yếu tố
vật chất và tinh thần. Yếu tố vật chất được thể hiện qua việc chiếm hữu
thực sự và hành xử chủ quyền trên lãnh thổ đó. Điều này có nghĩa là
quốc gia chiếm hữu phải có sự hiện diện thường trực trên lãnh thổ được
chiếm hữu, và phải có những hoạt động hoặc những hành vi có tính quốc
gia đối với lãnh thổ đó. Sự hành xử chủ quyền phải có tính liên tục. Còn
yếu tố tinh thần có nghĩa là quốc gia phải có ý định thực sự chiếm hữu
mảnh đất đó. Phải hội đủ hai yếu tố vật chất và tinh thần trên thì sự
chiếm hữu mới có hiệu lực. Và sự từ bỏ lãnh thổ cũng phải hội đủ cả hai
yếu tố: vật chất, tức là không hành xử chủ quyền trong một thời gian
dài, và tinh thần, tức là có ý muốn từ bỏ mảnh đất đó. Phải hội đủ cả
hai yếu tố: từ bỏ vật chất và từ bỏ tinh thần thì lãnh thổ đó mới được
xem như bị từ bỏ, và trở lại quy chế vô chủ.[4]

Ngoài phương pháp chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền (occupationeffectivité), một quốc gia cũng có thể thụ đắc chủ quyền qua những phương pháp khác như chuyển nhượng (cession), thời hiệu (prescription), củng cố chủ quyền bằng danh nghĩa lịch sử (consolidation par titre historique),…
Phương pháp “củng cố chủ quyền bằng danh nghĩa lịch sử” được áp dụng
nếu quốc gia đã sử dụng lâu đời một lãnh thổ khác mà không có phản đối
của một quốc gia nào khác.[5]

Những
tiêu chuẩn trên đã được áp dụng thường xuyên bởi án lệ quốc tế, trong
những bản án về tranh chấp đảo Palmas, đảo Groenland, đảo Minquier và
Ecrehous…

1.2. Chủ quyền lịch sử của Việt Nam

Phải
nói rằng, vì hoàn cảnh chiến tranh, nên tài liệu lịch sử của Việt Nam
đã bị tàn phá hoặc thất lạc rất nhiều. Việt Nam đã đưa ra những tài liệu
lịch sử và địa lý đủ để chứng minh rằng mình đã khám phá ra hai quần
đảo này từ lâu, đã chiếm hữu tượng trưng cũng như thực sự và hành xử chủ
quyền trên hai quần đảo qua nhiều đời vua và trải qua ít nhất là ba thế
kỷ.

1.2.1. Khám phá ít nhất là từ thế kỷ XV, và hành xử chủ quyền trong thế kỷ XVII

Dân
đánh cá Việt Nam đã sống trên những đảo này và khai thác đảo từ lâu
đời. Tài liệu sớm nhất mà Việt Nam còn có được là quyển “Tuyển tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ đồ thư
của Đỗ Bá, viết vào thế kỷ XVII. Danh từ “Tuyển tập” cho ta thấy tài
liệu này được thu nhập từ nhiều tài liệu trước nữa. Trong quyển này, Đỗ
Bá đã tả những quần đảo này rất chính xác, và xác nhận rằng Chúa Nguyễn
đã lập Đội Hoàng Sa để khai thác quần đảo từ thế kỷ XVII. Đoạn trích do
sử gia kiêm nhà Hán học Võ Long Tê dịch như sau:

“Tại
làng Kim Hộ, ở hai bên bờ sông có hai ngọn núi, mỗi ngọn có mỏ vàng do
nhà nước cai quản. Ngoài khơi, một quần đảo với những cồn cát dài, gọi
là “Bãi Cát Vàng”, dài khoảng 400 lý, và rộng 20 lý nhô lên từ dưới đáy
biển, đối diện với bờ biển từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh. Vào mùa gió
nồm Tây Nam, những thương thuyền từ nhiều quốc gia đi gần bờ biển
thường bị đắm dạt vào những đảo này; đến mùa gió Đông Bắc, những thuyền
đi ngoài khơi cũng bị đắm như thế. Tất cả những người bị đắm trôi dạt
vào đảo, đều bị chết đói. Nhiều hàng hoá tích luỹ trên đảo.

Mỗi
năm, vào tháng cuối của mùa đông, Chúa Nguyễn đều cho một hạm đội gồm
18 thuyền đi ra đảo để thu thập những hoá vật, đem về được một số lớn
vàng, bạc, tiền tệ, súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm, ra tới đảo mất một ngày
rưỡi, nếu đi từ Sa Kỳ thì chỉ mất nửa ngày.”[6]

Theo
sử gia Võ Long Tê, mặc dù quyển sách của Đỗ Bá được viết vào thế kỷ
XVII (vào năm 1686), đoạn thứ nhất của hai đoạn trên được trích từ phần
thứ ba của quyển Hồng Đức Bản Đồ -Hồng Đức là tên hiệu của vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497).[7]
Như vậy, Việt Nam đã khám phá hoặc biết tới những đảo này ít ra cũng từ
thế kỷ XV. Danh từ Bãi Cát Vàng chứng tỏ rằng những đảo này đã được
những người Việt Nam ít học nhưng hiểu biết nhiều về biển khám phá và
khai thác, từ lâu trước khi chính quyền Chúa Nguyễn tổ chức khai thác
đảo. Dân Việt Nam đã sinh sống ở đó từ nhiều thế kỷ, và chính quyền nhà
Nguyễn từ thế kỷ XVII đã biết tổ chức khai thác đảo có hệ thống. Những
yếu tố này, nhất là sự khai thác của nhà nước từ thế kỷ XVII qua rất
nhiều năm, đã tạo nên từ thời đó một chủ quyền lịch sử cho Việt Nam trên
những đảo này.

1.2.2. Hành xử chủ quyền trong thế kỷ XVIII: Quyển Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn

Lê Quý Đôn là quan dưới thời nhà Lê, phụ trách vùng Thuận Hoá, Quảng Nam. Ông đã viết Phủ biên tạp lục vào năm 1776, tại Quảng Nam, nên đã sử dụng được rất nhiều tài liệu của chính quyền các Chúa Nguyễn để lại.[8] Đoạn sau đây nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:

“…
Phủ Quảng Ngãi, ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn có núi gọi
là cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, trước có phường Tứ Chính, dân cư trồng
đậu ra biển bốn canh thì đến; phía ngoài nữa, lại có đảo Đại Trường Sa,
trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để
lấy, đi ba ngày đêm thì mới đến, là chỗ gần Bắc Hải”.[9]

Một đoạn rất dài khác cũng trong Phủ biên tạp lục
nhưng cần phải trích dẫn vì nó cung cấp nhiều chi tiết quan trọng liên
quan đến cách Chúa Nguyễn tổ chức khai thác hai quần đảo một cách hệ
thống:


Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về
phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách
nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh
thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng,
dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo
có vô số yến sào; các thứ chim có hàng ngàn, hàng vạn, thấy người thì
đậu vòng quanh không tránh. Trên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc
tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục,
không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung
vôi xây nhà; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc
đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục
gọi là Trắng bông, giống đồi mồi nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ
dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là
con đột đột, bơi lội ở bến bãi, lấy về dùng vôi sát quan, bỏ ruột phơi
khô, lúc ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn
càng tốt.

Các
thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội
Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ
tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc
thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt
chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tầu, như là gươm ngựa, hoa bạc,
tiền bạc, vòng sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba,
hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến
thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các
thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít
không nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đã xem sổ của cai đội
cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: Năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm
Giáp Thân được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ
Sửu đến năm Quý Tỵ năm năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba.
Cũng có năm được thiếc khôi, bát sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi.

Họ
Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn
Thứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì
cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền
câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm
vật của tầu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai
đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc
của quý ít khi lấy được”.[10]

Đoạn
này cho thấy việc khai thác hai quần đảo của Đội Hoàng Sa và Đội Bắc
Hải kéo dài từ thế kỷ XVII sang đến cuối thế kỷ XVIII. Hoạt động của hai
đội này được tổ chức có hệ thống, đều đều mỗi năm ra đảo công tác 8
tháng. Các thuỷ thủ do nhà nước tuyển dụng, hưởng bổng lộc của nhà nước,
giấy phép và lệnh ra công tác do nhà nước cấp.

Các bộ sử như Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam nhất thống chí, Hoàng Việt địa dư chí,
đều có đoạn ghi các Chúa Nguyễn tổ chức khai thác hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, và cả các đảo khác nữa: Đội Thanh Châu phụ trách các đảo
ngoài khơi Quy Nhơn lấy tổ chim yến, Đội Hải Môn hoạt động ở các đảo Phú
Quý, Đội Hoàng Sa chuyên ra quần đảo Hoàng Sa, sau đó lại tổ chức Đội
Bắc Hải thuộc đội Hoàng Sa nhưng phụ trách các đảo xa ở phía Nam trong
đó có quần đảo Trường Sa, đảo Côn Lôn và các đảo nằm trong vùng vịnh
Thái Lan thuộc chủ quyền của Việt Nam.[11]

Đặc biệt là bộ Lịch triều hiến chương loại chí: Dư địa chí
của Phan Huy Chú (1782 – 1840). Phan Huy Chú và các tác phẩm của ông
được Gaspardone nghiên cứu. Bộ sử này viết vào đầu thế kỷ XIX và gồm 49
quyển nằm ở École Fransaise d’Extrême Orient.[12]

1.2.3. Chính thức chiếm hữu và hành xử chủ quyền trong thế kỷ XIX

Chủ quyền được tiếp tục hành xử qua thế kỷ XIX, dưới thời nhà Nguyễn (là thời đại kế vị chính quyền các Chúa Nguyễn).

Vị
vua đầu tiên của nhà Nguyễn, Vua Gia Long, đã củng cố thêm quyền lịch
sử của Việt Nam bằng cách chính thức chiếm hữu hai quần đảo. Năm 1816,
Vua đã ra lệnh cho Đội Hoàng Sa và hải quân của triều đình ra thăm dò,
đo thuỷ lộ, và cắm cờ trên quần đảo Hoàng Sa để biểu tượng cho chủ quyền
của Việt Nam. Đoạn sau đây của bộ Việt Nam thực lục chính biên chứng minh điều này:

“Năm Bính Tý, năm thứ 15 đời Vua Gia Long (1816)

Ra lệnh cho lực lượng hải quân và đội Hoàng Sa đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa để thanh tra và khám xét thuỷ trình.”

Sự chiếm hữu hai quần đảo theo lệnh của Vua Gia Long cũng được chứng nhận bởi các tài liệu của phương Tây.

Bài của M.A. Dubois de Jancigny viết như sau:

“…
Từ hơn 34 năm, Quần đảo Paracel, mang tên là Cát Vàng hay Hoàng Sa, là
một giải đảo quanh co của nhiều đảo chìm và nổi, quả là rất đáng sợ cho
các nhà hàng hải, đã do những người Nam Kỳ chiếm giữ. Chúng tôi không
biết rằng họ có xây dựng cơ sở của mình hay không, nhưng chắc chắn rằng
vua Gia Long đã quyết định giữ nơi này cho triều đại mình, vì rằng chính
ông đã thấy được rằng tự mình phải đến đấy chiếm lấy và năm 1816 nhà
vua đã trịnh trọng cắm ở đây lá cờ của Nam Kỳ”.[13]
Một bài khác của Jean Baptiste Chaigneau cũng ghi nhận điều trên:

“Nam
Kỳ, mà nhà vua hiện nay là hoàng đế bao gồm bản thân xứ Nam Kỳ, xứ Bắc
Kỳ, một phần của Vương quốc Campuchia, một số đảo có người ở không xa bờ
biển và quần đảo Paracel gồm những bá đá ngầm, đá nổi không có người ở.
Chỉ đến năm 1816 hoàng đế hiện nay mới chiếm lĩnh những đảo ấy.”[14]

Năm 1833, vua Minh Mệnh cho đặt bia đá trên quần đảo Hoàng Sa và xây chùa. Vua cũng ra lệnh trồng cây và cột trên đảo. Bộ Đại Nam thực lục chính biên, quyển thứ 104, viết như sau:

“Tháng
tám mùa thu năm Quý Tỵ, Minh Mệnh thứ 14 (1833)… Vua bảo Bộ Công rằng:
Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một
mầu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường (mắc
cạn) bị hại. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới
đó dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn
xanh tốt, người dễ nhận biết ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó
cũng là việc lợi muôn đời”.[15]

Năm sau, Vua Minh Mệnh ra lệnh cho Đội Hoàng Sa ra đảo lấy kích thước để vẽ bản đồ. Quyển Đại Nam thực lục chính biên(1834), quyển thứ 122 ghi nhận điều này:

“Năm Giáp Ngọ, thứ 15, đời Minh Mệnh:

… Vua truyền lệnh cho Đội trưởng Trương Phúc Sĩ và khoảng trên 20 thuỷ thủ ra quần đảo Hoàng Sa để vẽ bản đồ…”.[16]

Đến năm 1835 thì lệnh xây miếu, dựng bia đá được hoàn tất và được ghi nhận trong quyển Đại Nam thực lục chính biên, quyển thứ 154:

“Tháng
sáu mùa hạ năm Ất Mùi, Minh Mệnh thứ 16 (1835)… Dựng đền thờ thần (ở
đảo) Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi. Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một
chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía Tây
Nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ: “Vạn Lý Ba Bình” (1). Còn Bạch Sa
chu vi 1.070 trượng, tên cũ là Phật Tự Sơn, bờ đông, tây, nam đều đá
san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với một cồn toàn
đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước,
ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than Thạch. Năm ngoái vua toan dựng miếu
lập bia ở chỗ ấy, nhưng vì sóng gió không làm được. Đến đây mới sai cai
đội thuỷ quân Phạm Văn Nguyên đem lính và Giám thành cùng phu thuyền hai
tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách toà
miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình
phong. Mười ngày làm xong, rồi về”.[17]

Đoạn sau đây của cùng bộ sách, cho thấy vua nhà Nguyễn không những quan
tâm đến việc khai thác đảo mà còn nhận thức được vị trí chiến lược của
hai quần đảo, xem chúng như là lãnh thổ biên phòng của Việt Nam và tổ
chức cả một chương trình dài hạn để củng cố biên cương đó – theo Đại Nam thực lục chính biên, quyển thứ 165:

“Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mệnh thứ 17 (1836), mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1…

Bộ
Công tâu: Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu.
Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thể nó xa rộng, mới chỉ được một
nơi, cũng chưa rõ ràng. Hàng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để
thuộc đường biển. Từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng
giêng, xin phái thuỷ quân và vệ Giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm
thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình
Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa, không
cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào; khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ
ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi, và nước biển
xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm
trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét
ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ
ấy, căn cứ vào đường đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy
trông vào bờ biển, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối
chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao
nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình”.

“Vua
y lời tâu, phái suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi,
chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi bài
gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ “Minh Mệnh
thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu
Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi
nhớ”.[18]

Sau
đó, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được vẽ trên bản đồ của triều
đình Vua Minh Mệnh. Những đoạn trên đây cho thấy chủ quyền lịch sử của
Việt Nam đã tiếp tục được hành xử bởi các vua nhà Nguyễn. Đội Hoàng Sa
và Bắc Hải được trao thêm nhiều nhiệm vụ: tuần tiễu, đi lấy kích thước
đảo để vẽ bản đồ, thăm dò địa hải, vẽ thuỷ trình,… Những Đội này cũng có
nhiệm vụ thu thuế những người tạm sống trên đảo[19].

Hai
đội Hoàng Sa và Bắc Hải hoạt động cho đến khi Pháp xâm lược Việt Nam.
Ít nhất từ thế kỷ XVII (và có thể từ thế kỷ XV hoặc trước nữa), từ thời
Chúa Nguyễn, trải qua các triều đại vua nhà Nguyễn, trong 3 thế kỷ, hai
đội này đã có nhiều hoạt động khai thác, quản trị và biên phòng đối với
hai quần đảo. Đây là những hoạt động của nhà nước, do nhà nước tổ chức.
Những hoạt động này kéo dài suốt 300 năm không có một lời phản đối của
Trung Hoa thời đó. Nhà Nguyễn cũng ý thức được trách nhiệm quốc tế của
mình từ thời đó và cho trồng cây trên đảo để các thuyền bè khỏi bị đắm
và mắc cạn. Rõ ràng đây là những sự hành xử chủ quyền của một quốc gia
trên lãnh thổ của mình. Như vậy, chủ quyền của Việt Nam được thụ đắc qua
hai phương pháp phối hợp nhau: (1) quyền lịch sử bắt nguồn từ sự sử
dụng và chiếm hữu lâu đời một lãnh thổ vô chủ dưới thời các Chúa Nguyễn,
thế kỷ XVII và XVIII (consolidation par titre historique), và
(2) chủ quyền bắt nguồn từ sự chính thức chiếm hữu và hành xử chủ quyền
một cách liên tục dưới thời các vua nhà Nguyễn, thế kỷ XIX (prise de possession, occupation et effectivité).
Thực ra việc thụ đắc bằng phương pháp (1) cũng đã đủ để tạo chủ quyền
cho Việt Nam, và như vậy, Việt Nam đã có chủ quyền lịch sử từ thế kỷ
XVII. Quyền này lại được củng cố thêm khi các vua nhà Nguyễn chính thức
chiếm hữu đảo. Đội Hoàng Sa và Bắc Hải không hiện diện thường xuyên trên
đảo vì điều kiện sinh sống ở các đảo không cho phép. Tuy nhiên, lệ án
quốc tế đã mềm dẻo đối với những nơi này luật không bắt buộc phải có một
sự hiện diện thường xuyên của quốc gia chiếm hữu. Trong vụ án
Clipperton, Pháp chỉ cho tàu chiến thanh tra đảo, mà không đặt một cơ
quan công quyền nào hiện diện thường xuyên tại đảo. Trọng tài Quốc tế đã
cho rằng như vậy cũng đủ để hành xử chủ quyền, vì điều kiện ở đảo không
cho phép sống thường xuyên trên đó.[20]
Trong trường hợp Việt Nam, mặc dù không ở lại đảo thường xuyên, hai Đội
Hoàng Sa và Bắc Hải cũng sống ở đó 8 tháng mỗi năm đến khi gió nồm bắt
đầu thổi, tức là mùa bão biển tới, họ mới trở về đất liền 4 tháng, và
đến tháng giêng lại trở ra các đảo đóng ỏ đó 8 tháng và hàng năm đều như
vậy. Với hoàn cảnh thời đó, thuyền của các quốc gia khác, kể cả thuyển
của Trung Hoa đều sợ không dám đến đảo, trong khi Việt Nam cho quân đến
đóng ở các đảo 8 tháng mỗi năm. Như vậy, đã vượt tiêu chuẩn ấn định bởi
vụ án Clipperton, và quá đủ để xem như Việt Nam đã chiếm hữu hai quần
đảo từ thời các Chúa Nguyễn (thế kỷ XVII).

1.2.4.
Trung Quốc nói rằng những đảo trong bản đồ của Việt Nam (Đại Nam nhất
thống toàn đồ), không phải là Xisha (đảo Cồn cát Tây) và Nansha (đảo Cồn
cát Nam) của Trung Quốc vì bản đồ cho thấy những đảo gần bờ biển quá.[21]

Phải
nói rằng kỹ thuật đo lường, kỹ thuật vẽ bản đồ, ý niệm về khoảng cách
và thời gian ngày xưa không phải như ngày nay. Chính những tác giả Trung
Quốc đã khẳng định điều đó.[22] Vấn đề xác định những đảo tranh chấp không phải là mới mẻ, vì nó đã được đặt ra trong nhiều bản án.[23]
Vấn đề này cũng được đặt ra đối với lập luận của Trung Quốc ở mục 1.3.
của bài này. Dù sao, trong trường hợp Việt Nam, chỉ cần nhìn bản đồ cũng
thấy rằng không có sự nhầm lẫn giữa Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo ở
ven biển, khi bản đồ được vẽ, vì những đảo ven bở biển như đảo Ré cũng
đều được vẽ trên bản đồ, những đảo này đã được vẽ sát dọc theo bờ biển.
Mà trên thực tế, giữa những đảo ven bờ biển và Hoàng Sa, Trường Sa,
không có đảo hoặc quần đảo nào khác. Từ đó, chúng ta có thể kết luận
rằng những quần đảo mà bản đồ Việt Nam ghi là Hoàng Sa và Vạn Lý Trường
Sa chính là Hoàng Sa và Trường Sa. Phương pháp suy diễn này đã được áp
dụng trong bản án Palmas. Người vẽ bản đồ chỉ không có ý niệm xác thực
về khoảng cách không gian và tỷ lệ phải áp dụng khi chuyển nó lên mặt
giấy để vẽ bản đồ, nên vẽ khoảng cách ngắn hơn thực tế. Ngay cả khoảng
cách giữa hai quần đảo Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa cũng bị rút ngắn
lại, khiến cho thoạt nhìn, người ta có thể tưởng rằng đây chỉ là một
quần đảo. Tuy nhiên, nhiều điều rút từ những ghi chép trong sách sử Việt
Nam, và từ những bản đồ thời đó, đã chứng minh đó không phải chỉ là một
quần đảo Hoàng Sa:

(1) Trên bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ có ghi tên hai đảo rõ rệt vẽ bằng chữ nho: Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa.

(2)
Các sách sử địa của Việt Nam có nói đến 130 đảo. Con số này không phù
hợp với số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, hoặc quần đảo Trường Sa tính
riêng. Nhưng nếu cộng số đảo của hai quần đảo lại thì con số vừa đúng là
130.[24]
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Hinh1
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Hinh2
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Hinh3
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Hinh4
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Hinh5
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Hinh6
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỞNG SA VÀ HOÀNG SA Hinh7

(3) Nếu so sánh bản Đại Nam nhất thống toàn đồ (Bản đồ 1), bản đồ phóng đại của quần đảo này trích từ Đại Nam nhất thống toàn đồ (Bản đồ 2), bản đồ The Times Atlas of the World
(ghi tắt là Atlas, Bản đồ 3 và 6), bản đồ phóng to hiện thời của dãy
Hoàng Sa (Bản đồ 4), và bản đồ của dãy Trường Sa (Bản đồ 7), thì sẽ thấy
như sau:

·
Hình dạng của dãy quần đảo trên Bản đồ 1 không phù hợp với hình dạng
của quần đảo Hoàng Sa nói riêng. Hình dạng của quần đảo của Hoàng Sa là
theo hình vòng tròn, nó gồm hai cụm đảo chính là cụm Crescent hình dạng
đúng như cái tên của nó, tức là các đảo nằm cụm vào nhau theo hình lưỡi
liềm. Phía sau cụm Crescent (Lưỡi Liềm) là cụm Amphitrite (An Vĩnh), xếp
theo hình vòng cung. Ngoài ra có vài đảo rải rác quanh đó, nằm theo
hình vòng tròn vây quanh hai cụm đảo chính, chứ không phải hình dài (xem
Bản đồ 3 và 4). Trong khi đó, nếu nhìn vào Bản đồ 2, ta sẽ thấy một
quần đảo theo hình chuỗi trải dài xuống và bị thóp lại ở giữa, hoàn toàn
không phải là hình cụm như quần đảo Hoàng Sa. Phần trên của chuỗi này,
được xếp theo cụm giống như Hoàng Sa (xem đoạn từ A tới B trên bản đồ,
do tác giả kẻ cho dễ thấy). Nhưng nửa dưới của chuỗi đảo mang một hình
dạng xuôi dài xuống (đoạn kẻ từ B tới C), không giống một phần nào của
quần đảo Hoàng Sa như ta thấy trên Bản đồ 3 hoặc Bản đồ 4. Phần này chắc
chắn không phải là Hoàng Sa. Theo Bản đồ 6 thì giữa quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa không có một quần đảo nào khác cả, mà quần đảo
hình chuỗi dài xuống thì lại càng không có. Như vậy phần dưới của chuỗi
đảo được vẽ trên Bản đồ 2 không thể là quần đảo nào khác hơn là Trường
Sa. Mỗi phần lại có một tên riêng viết bằng chữ nho: “Hoàng Sa” và “Vạn
Lý Trường Sa”. Điều này chứng minh Đại Nam nhất thống toàn đồ phân biệt
rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

· Bản Đại Nam nhất thống toàn đồ
(Bản đồ 1) cho thấy chuỗi đảo kéo dài suốt từ Quảng Nam đến tận Cam
Ranh, đảo thấp nhất trên bản đồ nằm ngoài khơi Cam Ranh và Khánh Hoà.
Trong khi đó quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ Atlas nằm ngoài khơi
tỉnh Quảng Nam, đảo thấp nhất của nó theo hướng tây nam là đảo Triton
(đảo Tri Tôn) nằm song song với tỉnh Quảng Nam. Trên Bản đồ 2, đảo thấp
nhất phía tây của cụm đảo A-B nằm ngang với cửa Đại Cát (trong sách của
Đỗ Bá gọi là Đại Chiêm), mà Đại Cát vị trí ngang với Quảng Nam. Như vậy,
đảo nói trên là đảo Triton (gạch chữ X trên Bản đồ 2, do tác giả ghi).
Và như thế thì làm sao cắt nghĩa được đoạn dưới của chuỗi đảo trên Đại Nam nhất thống toàn đồ, là đoạn bắt đầu từ Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi trên bản đồ Atlas) đến vịnh Cam Ranh? Đảo Hoàng Sa không kéo dài xuống tới Khánh Hoà hoặc vịnh Cam Ranh. Nếu nhìn vảo bản đồ Atlas,
ta sẽ thấy song song với tỉnh Phan Rang, gần vịnh Cam Ranh (xem Bản đồ
6), là đảo Thitu (đảo Thị Tứ) của dãy Trường Sa: Northeast Cay (đảo Song
Tử Đông), Southeast Cay (đảo Song Tử Tây), South Reef (đá Nam), và West
York Island (đảo Dừa), đều nằm ngoài khơi, ngang với khoảng cách từ
Khánh Hoà tới Cam Ranh (xem Bản đồ 7).

· Nhìn vào bản đồ của Đại Nam nhất thống toàn đồ (Bản đồ 1), có thể có 4 giả thuyết:

a) Đội Hoàng Sa và Bắc Hải không biết đến Trường Sa và các tác giả chỉ vẽ Hoàng Sa mà thôi.

b ) Đội Hoàng Sa và Bắc Hải đã hoạt động ở cả quần đảo Hoàng Sa và toàn
thể quần đảo Trường Sa, và tác giả của bản đồ muốn vẽ cả hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng vì kỹ thuật kém, nên toàn khố



Được sửa bởi Người Điều Hành ngày 22/6/2011, 12:35 pm; sửa lần 1.

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết